Đồng chí Trần Kiên (giữa) cùng đồng đội |
Mới đây, tôi có chuyến du lịch xuyên Việt. Khi đoàn dừng vài giờ ở thành phố Quảng Ngãi, tôi nghĩ ngay đến việc vào nghĩa trang liệt sĩ tỉnh viếng ông Trần Kiên. Kể từ ngày tôi đến thăm ông ở nhà riêng tại thành phố này, cũng là lần cuối cùng được gặp nhà lãnh đạo rất được dân yêu mến ấy, đã 23 năm trôi qua rồi.
Lần đầu tôi được gặp ông là vào mùa xuân năm 1980. Tôi làm việc tại tòa soạn báo Quân đội nhân dân, nhận được giấy mời họp từ Văn phòng Bộ Lâm nghiệp ở 123 Lò Đúc, Hà Nội. Trước khi nhập ngũ, tôi vốn là cán bộ kỹ thuật của một cơ quan thuộc Tổng cục Lâm nghiệp (tiền thân của Bộ Lâm nghiệp), về lại Bộ lần này còn mang ý nghĩa “người nhà”. Sau cuộc họp báo, người của Văn phòng Bộ dẫn tôi đến gặp riêng Bộ trưởng Trần Kiên. Lúc đó, ông là Ủy viên Trung ương Đảng (khóa IV), vừa tại vị ở Bộ Lâm nghiệp được tròn 1 năm. Vì biết tôi vốn là người của ngành lâm nghiệp, lại là phóng viên quân đội, ông có sự “ưu ái” hơn các phóng viên báo khác. Bộ trưởng Trần Kiên ở tuổi 60, dáng cao to, mái tóc bạc phơ, nói giọng Quảng Ngãi giàu âm sắc. Vào câu chuyện, tôi thưa với Bộ trưởng là, một sự tình cờ trước khi tôi lên đường nhập ngũ tháng 9/1972, đã được người đứng đầu ngành lâm nghiệp lúc đó là Tổng cục trưởng Hoàng Bửu Đôn gặp riêng động viên khích lệ, nay mới về báo Quân đội (tôi về Báo vào tháng 6/1979) lại được diện kiến người đứng đầu Bộ Lâm nghiệp…
- Chúng ta đều là người của quân đội cả - Bộ trưởng Trần Kiên cười xởi lởi, như không còn phân biệt chủ, khách - Anh Hoàng Bửu Đôn vốn là đại tá thuộc binh chủng Thông tin liên lạc chuyển ra; còn tôi ở Bộ tư lệnh Quân khu 5 suốt thời chống Mỹ, sau ngày nước nhà thống nhất mới chuyển sang dân sự, anh em vẫn gọi vui là “Tướng không sao” đấy.
Lúc đó, có anh cán bộ Văn phòng Bộ vào nói với Bộ trưởng là, GS.TSKH. Nguyễn Văn Trương (người sau này được phong danh hiệu Anh hùng lao động thời kỳ đổi mới) đã có mặt, ông gật đầu mời vào. Sau khi nghe Bộ trưởng giới thiệu, GS. Trương thân tình bắt tay tôi. Bộ trưởng nói tiếp:
- Tôi mới về, thời gian qua mải đi các cơ sở để nắm tình hình, giờ thì đến lúc muốn nghe chuyên gia nói về việc điều tra quy hoạch rừng, cụ thể là cách khôi phục lại ở các khu rừng tự nhiên bị chặt phá nặng nề. Nhân có phóng viên Quân đội, lại vốn là người của ngành, cũng muốn để phóng viên biết, có điều kiện thì đi thực tế tuyên truyền cho ngành, trước hết đến vùng trồng sen, trồng dặm thí điểm ở khu kinh tế Nghĩa Đàn, Nghệ An.
Gần một giờ đồng hồ, GS. Trương thuyết trình về cách tái tạo rừng tự nhiên mà theo ông là cần làm ngay. Bộ trưởng chăm chú nghe, giở sổ ghi chép, thỉnh thoảng hỏi lại vài câu, điều ông băn khoăn nhất là làm sao giữ được rừng tự nhiên khi không ít những người dân miền núi lại tiếp tay cho lâm tặc.
Sau lần gặp ấy, tôi trở nên quen thân với GS. Trương và đã “bám” ông đi thực tế một chuyến ở lâm trường Quỳ Hợp. Trong lúc trò chuyện, GS. Trương tỏ ra rất kính trọng Bộ trưởng Trần Kiên và còn ý nhị gọi ông là “Nhà cách mạng triệt để”. Ông giải thích với tôi: Bộ trưởng làm việc gì cũng triệt để. Đã nói là làm. Không mấy khi ngồi văn phòng, rất ghét hô hào chung chung và tệ quan liêu, giấy tờ. Cung cách ấy của ông không khác hồi ở Quân đội. Vị giáo sư cùng tuổi với Bộ trưởng còn nói: Anh Trần Kiên rất chịu nghe. Tôi đã qua mấy đời bộ trưởng, thì đến anh ấy cảm thấy mình được việc nhất, cả năm cũng rong ruổi trên đường, ít khi ngồi nhà.
Sau cuộc gặp, tôi hy vọng sẽ có mối quan hệ lâu dài với ngành lâm nghiệp và cá nhân Bộ trưởng Trần Kiên. Thế rồi chỉ đến cuối năm đó, tôi nghe tin Trung ương đã điều ông về làm Bí thư Tỉnh ủy Nghĩa Bình (Quảng Ngãi - Bình Định). Liên tiếp hai Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ V và VI ông được bầu vào Trung ương, vào Ban Bí thư, làm Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra trung ương Đảng.
Ông tên thật là Nguyễn Tuấn Tài, tham gia cách mạng từ năm 16 tuổi, đầu năm 1945 là đội viên đội Du kích Ba Tơ và tham gia khởi nghĩa ở tỉnh Quảng Ngãi. Nhập ngũ làm đến Trung đoàn trưởng, về Đảng là Ủy viên Thường vụ tỉnh Gia Kon (nay là Gia Lai và Kon Tum). Cuối năm 1954, ông ở lại hoạt động bí mật, là Bí thư tỉnh ủy Kon Tum và Liên tỉnh ủy viên Liên tỉnh 4 (Tây Nguyên). Đến trước ngày nước nhà thống nhất, ông là Cục trưởng Cục Hậu cần Quân khu 5, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân Cách mạng Trung Trung Bộ. Rời quân ngũ, ông không có quân hàm gì, vì thế anh em gọi vui là “Tướng không sao”, một cấp dưới của ông sau này lên đến chức Bộ trưởng Bộ Quốc phòng là Đại tướng Đoàn Khuê. Những năm tháng chiến tranh, ông từng đóng khố, cầm rựa, mang xà lét, vui buồn với bộ đội, nhân dân và ông thông thạo vùng đồng bào dân tộc thiểu số như thông thạo quê hương mình. Có thể nói, không nóc nhà nào ở Gia Lai, Kon Tum, miền Tây Quảng Ngãi không biết đến tên ông. Sau ngày hòa bình, ông như “con dao pha”, lần lượt làm Bí thư Tỉnh ủy cả ba tỉnh Tây Nguyên: Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, rồi Bình Định, Nghĩa Bình. Ông được tín nhiệm ở cả cấp lãnh đạo cao nhất đến người dân bình thường, bởi có đủ những đức tính tiêu biểu của người cách mạng: cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư. Lúc nào ông cũng ưu tư, suy nghĩ cho dân cho nước, với tác phong đến tận nơi, xem tận mắt, nghe tận tai. Còn về riêng tư, ông sống giản dị, không hề đòi hỏi một đãi ngộ nào cho mình. Vợ ông, bà Võ Thị Nhược cũng hoạt động từ thời chống Pháp, nghe nói một lần đã mang thai, không may bị sẩy, từ đó không có con lại nữa…
Thế rồi vào đầu năm 1992, tôi có dịp đi công tác ở miền Trung, liền hỏi đường đến thăm nhà ông ở thị xã Quảng Ngãi. Không người dân nào của thị xã miền Trung Trung Bộ này không biết nhà “Bí thư Trần Kiên”. Người ta kể về ông như một niềm tự hào của quê hương, họ gọi ông là “Người Cộng sản chân chính”; “Học trò mẫu mực của Bác Hồ”.
Căn nhà ngói 3 gian 2 chái chừng dăm chục mét vuông cùng một mảnh vườn nhỏ, tọa lạc ở gần cuối thị xã, giống như mọi căn nhà dân nghèo khác. Khi tôi đến, bà Võ Thị Nhược đang cho lợn ăn và ông đang ngồi đọc báo trong nhà. Nom ông già hơn nhiều so với cách đấy 12 năm tôi đã gặp ở Bộ Lâm nghiệp. Tất nhiên ông không thể nhớ được lần gặp ấy, song khi nghe tôi tự giới thiệu ông rất vui và gọi với ra phía sau nhà: “Bà ơi, có khách Hà Nội đến thăm!” Ngoài bộ bàn ghế tựa ba nan và cái ti vi nhỏ đặt dưới tủ thờ ở gian giữa, nhà ông hầu như chẳng có thứ đồ đạc gì đáng giá. Nhìn gia cảnh ông, tôi thấy cay cay nơi sống mũi vì cảm động. Còn chủ nhà 72 tuổi thì vui vẻ chỉ cái xe đạp để ở góc nhà bảo, vừa đạp về thăm quê ở huyện Tư Nghĩa cách đây hơn năm chục cây số, mà lên vẫn khỏe re. Rồi ông hỏi tôi đủ chuyện, làm báo thời đổi mới có gì khác thời bao cấp; về tình hình sẵn sàng chiến đấu của Quân đội; về giá cả ngoài Hà Nội… “Nhà cách mạng triệt để” vẫn còn đầy nhiệt huyết với dân với nước như thuở nào!
Thế rồi, người học trò mẫu mực của Bác Hồ về với Thế giới người hiền chiều ngày 26/5/2004, hưởng thọ 84 tuổi.
Giờ đây, tôi đến đặt lên mộ ông một bó hoa tươi, tôi chủ ý chọn cúc vàng và lay ơn đỏ. Người quản trang dẫn tôi ra mộ ông thắp hương, nhìn bó hoa vui vẻ bảo: “Hơn 10 năm nay, không ngày nào trên mộ Bí thư Trần Kiên không có một bó hoa tươi. Những người tri ân ông là đồng đội một thời, có cả người dân bình thường trong vùng, những khách vãng lai qua lại Quảng Ngãi vì kính trọng nhân cách, cống hiến của ông mà đến. Và lạ là, hầu hết những bó hoa, không ai bảo ai đều chọn có hai mầu đỏ và vàng, màu cờ Tổ quốc…”.
Vâng, mầu cờ Tổ quốc lúc nào cũng thắm tươi trên mộ của ông. Nhà cách mạng tuổi Canh Thân (1920) này là người trung thành nhất với lý tưởng đã lựa chọn tử thuở đầu xanh tuổi trẻ.