Có những nơi, giá đất trước và sau khi có dự án chênh lệch từ 50 - 700 lần. Ảnh minh họa: Tiên Giang |
Khoảng trống minh bạch thông tin đất đai
Pháp luật về đất đai và tiếp cận thông tin của Việt Nam đã quy định cụ thể trách nhiệm, quy trình, hình thức và thời hạn công khai thông tin BGĐ cấp tỉnh, quy hoạch sử dụng đất (QHSDĐ) cấp huyện và KHSDĐ cấp huyện cũng như cung cấp những nội dung thông tin này theo yêu cầu của người dân.
Nghiên cứu của Trung tâm Thúc đẩy giáo dục và Nâng cao năng lực phụ nữ (CEPEW) về nội dung công khai thông tin KHSDĐ cấp huyện và BGĐ cấp tỉnh trên môi trường điện tử năm 2022 cho thấy, người sử dụng, người dân khó khăn trong tìm kiếm thông tin về BGĐ; việc công khai thông tin KHSDĐ cấp huyện và BGĐ cấp tỉnh trên môi trường điện tử năm 2022 chậm cải thiện tại các địa phương so với năm 2021.
Theo đó, tính tới ngày 6/10/2022, có 41/63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (chiếm 65%) đã đăng tải công khai BGĐ trên cổng thông tin điện tử của địa phương, tăng 22,2% so với kết quả rà soát năm 2021. Đối với việc công khai KHSDĐ cấp huyện, trong số 705 UBND cấp huyện được khảo sát, có 55,2% đã công khai KHSDĐ trên cổng thông tin điện tử cấp huyện, tăng khoảng 7% so với kết quả rà soát năm 2021. Trong đó, chỉ có 19 đơn vị ban hành KHSDĐ đúng thời hạn.
Về phản hồi cung cấp thông tin, tính đến ngày 21/2/2023, có 146/561 UBND cấp huyện đã phản hồi theo yêu cầu của công dân. Trong đó, 108 cơ quan phản hồi cung cấp thông tin (chiếm 19%), 6 cơ quan từ chối cung cấp thông tin (chiếm 1%), 32 phản hồi khác (chiếm gần 6%) và 415 cơ quan (tương ứng 74%) không phản hồi. Kết quả này cho thấy, số lượng các cơ quan nhà nước không phản hồi yêu cầu cung cấp thông tin KHSDĐ của người dân ở mức cao.
Cần thiết quy định đồng bộ, cụ thể
Tại Tọa đàm “Đánh giá vòng 2 việc công khai thông tin KHSDĐ cấp huyện và BGĐ cấp tỉnh trên môi trường điện tử năm 2022” do Chương trình Phát triển Liên hợp quốc (UNDP) tại Việt Nam và CEPEW tổ chức ngày 9/3/2023, bà Ramla Khalidi, Đại diện thường trú UNDP tại Việt Nam cho biết, kinh nghiệm thực tiễn ở nhiều quốc gia cho thấy, nơi nào thông tin đất đai được chia sẻ công khai, minh bạch và người dân có cơ hội cho ý kiến vào các dự thảo quy hoạch, KHSDĐ, BGĐ, thì nơi đó kiểm soát tốt hơn nguy cơ tham nhũng liên quan đến đất đai, giảm thiểu những bức xúc liên quan đến đất đai, từ đó niềm tin của người dân với chính quyền được cải thiện. Việc chia sẻ thông tin không công bằng cho các nhóm đối tượng về KHSDĐ và BGĐ là một trong những nguyên nhân chính dẫn tới khiếu kiện, khiếu nại liên quan đến đất đai.
Việc chậm công bố bảng giá đất, thông tin quy hoạch sử dụng đất, kế hoạch sử dụng đất làm hạn chế việc theo dõi, giám sát từ các bên liên quan, đặc biệt là người dân, dư luận, báo chí.
PGS.TS Doãn Thị Hồng Nhung, Giảng viên cao cấp Khoa Luật thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội chia sẻ câu chuyện thực tiễn, có những nơi, giá đất trước và sau khi có dự án chênh lệch từ 50 - 700 lần. Sự chênh lệch này chỉ rõ một thực trạng là lợi ích của người dân, lợi ích của chủ đầu tư khi tham gia thu hồi đất, lợi ích của Nhà nước không có sự công bằng.
Trong khi đó, việc chậm công bố BGĐ, thông tin QHSDĐ, KHSDĐ làm hạn chế việc theo dõi, giám sát từ các bên liên quan, đặc biệt là người dân, dư luận, báo chí.
Lý giải một số nguyên nhân chậm hoặc không công khai thông tin, bà Hoàng Thị Vân Anh, nguyên Vụ trưởng Vụ Pháp chế, Tổng cục Quản lý đất đai thuộc Bộ Tài nguyên và Môi trường cho rằng, nhận thức về vai trò, vị trí của việc công khai thông tin này ở một số địa phương có lúc còn chưa tốt; chế tài xử lý chưa trực diện, tính răn đe không cao. Pháp luật về đất đai cũng chưa quy định đầy đủ các tài liệu cụ thể cần công bố, hướng dẫn kỹ thuật đối với các thông tin buộc phải công khai.
Bộ Tài nguyên và Môi trường đang trong quá trình lấy ý kiến rộng rãi đối với Dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi). Bà Vân Anh cho rằng, cần thắt chặt mối quan hệ giữa Luật Tiếp cận thông tin và Luật Đất đai theo hướng pháp luật về tiếp cận thông tin quy định khung pháp lý về tiếp cận thông tin; còn việc cung cấp thông tin như thế nào, nội dung, trình tự, thủ tục cung cấp đối với các loại thông tin (miễn phí, trả phí) nên được quy định rõ và cụ thể tại Luật Đất đai. Hiện pháp luật đất đai chỉ yêu cầu công bố đầy đủ nội dung quy hoạch nhưng nội dung đó gồm những gì thì chưa nêu rõ. BGĐ cũng như vậy, cần quy định rõ những tài liệu cần công bố để có cơ sở triển khai thực tiễn.
Về phía CEPEW, cơ quan này khuyến nghị, bổ sung thủ tục cung cấp thông tin theo yêu cầu của người dân theo quy định của Luật Tiếp cận thông tin 2016 vào các bộ thủ tục hành chính hiện hành của tất cả các ngành và lĩnh vực (trong đó có đất đai). Bổ sung quy định về thời điểm phê duyệt QHSDĐ cấp huyện trong quy định của pháp luật về đất đai để đảm bảo tính kịp thời và đồng bộ của các quy hoạch và KHSDĐ. Có quy định về việc cơ quan nắm giữ thông tin đất đai có trách nhiệm cung cấp thông tin khi người dân yêu cầu.
Riêng đối với quy định về thời điểm công khai thông tin đất đai, CEPEW và nhiều chuyên gia tại Hội thảo thống nhất đề xuất giữ nguyên quy định về thời điểm công khai thông tin đất đai (là 15 ngày) như quy định hiện hành (Luật Đất đai 2013) thay vì 30 ngày như trong Dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi). Các chuyên gia cho rằng, việc công khai thông tin đất đai càng sớm sẽ càng đảm bảo minh bạch, giảm bức xúc cho người dân và giảm tham nhũng trong bộ máy công quyền.