Đồng bằng sông Cửu Long là vùng lãnh thổ có vai trò, vị trí đặc biệt quan trọng trong phát triển đất nước, không chỉ là trụ đỡ, bảo đảm an toàn, an ninh lương thực, xuất khẩu nông sản, mà còn là một động lực thúc đẩy phát triển kinh tế của cả nước. Năm 2019, tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) đóng góp trên 12% cho GDP cả nước. Riêng nông nghiệp của Vùng chiếm 34,6% GDP toàn ngành nông nghiệp, đóng góp 54% sản lượng lúa, 70% sản lượng nuôi trồng thủy sản và 60% lượng trái cây của cả nước.
Trong thời gian qua, cùng với sự quan tâm chỉ đạo sát sao của Đảng, Chính phủ, sự vào cuộc tích cực của các địa phương, sự hỗ trợ của các đối tác phát triển, Đồng bằng sông Cửu Long đã đạt được nhiều thành tựu trong phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, GDP bình quân đầu người của Vùng vẫn thấp hơn 18% so với mức trung bình của cả nước. Đồng thời, Vùng cũng đang đối mặt với nhiều thách thức do tác động của biến đối khí hậu, các hoạt động phát triển ở thượng nguồn châu thổ, mặt trái từ hoạt động phát triển kinh tế - xã hội, khai thác sử dụng tài nguyên với cường độ cao, thiếu bền vững, gây ô nhiễm môi trường, mất cân bằng sinh thái nghiêm trọng. Thách thức có nhiều, nhưng cơ hội cũng không ít để phát triển vùng Đồng bằng sông Cửu Long, quan trọng là nhận thức được thách thức để quản lý rủi ro hiệu quả, nắm bắt cơ hội để tận dụng triệt để.
Về cơ cấu kinh tế nội vùng, nông nghiệp hiện là trụ cột phát triển kinh tế chính của Vùng, nhưng phát triển chưa thực sự bền vững; chưa được khai thác hết tiềm năng; vẫn theo xu hướng tối đa hóa sản lượng mà chưa quan tâm đến chất lượng, hiệu quả; cơ cấu ngành nông nghiệp nặng về thâm canh lúa với năng suất tuy cao nhưng chi phí lớn và giá trị gia tăng thấp; tài nguyên đất và nước bị khai thác cường độ cao, bắt đầu bị suy thoái và ô nhiễm… Công nghiệp và dịch vụ chưa thực sự phát triển, nhất là công nghiệp chế biến và dịch vụ hỗ trợ nông nghiệp vẫn còn manh mún, chưa hình thành các chuỗi giá trị nông nghiệp hoàn thiện, và do vậy chưa tối đa hóa thu nhập cho người dân và doanh nghiệp.
Tài nguyên nước là yếu tố cốt lõi trong phát triển của vùng. Tuy nhiên, các hoạt động phát triển thủy điện ở thượng nguồn, biến đổi khí hậu, nước biển dâng, và việc quản lý và khai thác nguồn nước thiếu bền vững thời gian vừa qua đã làm gia tăng thách thức về an ninh nguồn nước, các vấn đề sạt lở, sụt lún, xâm nhập mặn ngày càng nghiêm trọng, cùng với sự can thiệp ngày càng tăng và thiếu kiểm soát của con người vào tài nguyên của Vùng đã làm thay đổi điều kiện tự nhiên của Vùng, dẫn tới suy giảm đáng kể bản chất và độ bền vững của toàn bộ đồng bằng.
Phát triển đô thị và kết cấu hạ tầng của Vùng chưa tương xứng với yêu cầu phát triển. Kết nối hạ tầng giao thông nội vùng, liên vùng, đặc biệt là việc kết nối với các trung tâm kinh tế lớn như Hà Nội, TP.HCM và vùng Đông Nam Bộ còn kém phát triển, làm ảnh hưởng đến việc lưu thông, vận chuyển người và hàng hóa, tạo rào cản trong việc kêu gọi vốn đầu tư trong và ngoài nước, đồng thời làm ảnh hưởng đến việc phát triển công nghiệp, thương mại, dịch vụ, du lịch.
Nguồn nhân lực nội vùng hiện tại đặt ra nhiều vấn đề cần phải giải quyết. Mặt bằng học vấn và tỷ lệ ứng dụng khoa học, công nghệ tiên tiến của Vùng thấp hơn mức bình quân chung của cả nước. Chất lượng giáo dục, y tế chưa đáp ứng yêu cầu. Lao động chủ yếu đến từ khu vực nông nghiệp chưa có tay nghề, trình độ còn thấp, trong khi đó, số lao động có chất lượng đang có xu hướng dịch chuyển sang vùng Đông Nam Bộ, TP.HCM và các vùng khác. Phân bố dân cư phân tán trong khi số lượng dân số đang có xu hướng giảm do di cư.
Ảnh Internet |
Mặc dù còn khá nhiều thách thức tác động đến quá trình chuyển dịch cơ cấu, dần chuyển đổi mô hình phát triển từ chiều rộng sang chiều sâu, từ chú trọng số lượng sang cải thiện mạnh mẽ chất lượng, vùng Đồng bằng sông Cửu Long cũng có rất nhiều lợi thế, cơ hội phát triển.
Một là, vùng Đồng bằng sông Cửu Long có vị trí địa lý chiến lược, nằm ở trung tâm khu vực ASEAN, là cửa ngõ kết nối của các hành lang kinh tế GMS, có nhiều lợi thế phát triển kinh tế biển, biên mậu, giao thương quốc tế…
Hai là, nguồn nhân lực còn rất nhiều dư địa để phát triển và cải thiện chất lượng, trong đó, các địa phương trong vùng vẫn đang trong thời kỳ dân số vàng, tỷ trọng dân số dưới 15 tuổi chiếm trên 22% trong khi dân số trên 65 tuổi mới chiếm khoảng 8,4%. Điều quan trọng là cần có hệ thống giải pháp có tầm nhìn dài hạn cùng với sự quan tâm đầu tư hợp lý để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trẻ và rất dồi dào này.
Ba là, nền nông nghiệp của Vùng hiện vẫn đang nắm giữ rất nhiều sản phẩm ưa chuộng của thị trường thế giới với nhu cầu ngày càng tăng, như nông sản hữu cơ, tôm, cá tra, trái cây, lúa gạo… Điều quan trọng ở chỗ cần tận dụng tối đa cơ hội do các hiệp định thương mại thế hệ mới mang lại, thúc đẩy nông nghiệp hiệu quả cao trên nền tảng ứng dụng công nghệ cao để gia tăng giá trị, chất lượng của sản phẩm.
Bốn là, Đồng bằng sông Cửu Long có lợi thế đặc biệt về các nguồn năng lượng tái tạo, bao gồm năng lượng mặt trời, năng lượng gió, năng lượng sinh khối, năng lượng từ sóng biển và thủy triều. Biến đổi khí hậu có thể là tác nhân khiến lợi thế này mạnh hơn. Do vậy, định hướng phát triển năng lượng tái tạo ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long có thể xem là một chiến lược biến nguy cơ, thách thức của biến đổi khí hậu thành lợi thế, cơ hội phát triển.
Năm là, vùng Đồng bằng sông Cửu Long đang nắm giữ cơ hội lớn trong việc thu hút các nguồn lực đầu tư từ mọi thành phần kinh tế khi đang có sự dịch chuyển đầu tư mạnh mẽ từ nơi cạn kiệt cơ hội, từ nơi cạnh tranh quá khốc liệt và giá đầu vào đắt đỏ sang khu vực có nhiều tiềm năng chưa được khai thác. Đây thực sự còn là cơ hội mang tính “thiên thời”, đúng thời điểm chúng ta đang xây dựng quy hoạch vùng và quy hoạch tỉnh với cách tiếp cận mới, tầm nhìn chiến lược mới để sắp xếp lại không gian phát triển, xây dựng các cơ chế, chính sách nhằm mở toang cánh cửa để đón nhận các dòng đầu tư từ các thành phần kinh tế, trong nước và quốc tế để phát triển vùng Đồng bằng sông Cửu Long một cách nhanh, bền vững, thích ứng với biến đổi khí hậu.
Phát biểu tại Hội nghị, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng cho biết, trên cơ sở nhiệm vụ lập quy hoạch vùng Đồng bằng sông Cửu Long đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt vào tháng 7/2020, bám sát chỉ đạo của Chính phủ tại Nghị quyết số 120/NQ-CP, dựa trên quá trình kế thừa và tiếp tục nghiên cứu nhiều năm trước, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã khẩn trương chỉ đạo Tư vấn nghiên cứu phân tích, đánh giá, dự báo về các yếu tố, điều kiện, nguồn lực, bối cảnh phát triển, đánh giá thực trạng phát triển kinh tế - xã hội của vùng Đồng bằng sông Cửu Long, và xây dựng dự thảo Quy hoạch vùng Đồng bằng sông Cửu Long thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050. Dự thảo Quy hoạch đã đề xuất nhiều nội dung mới về quan điểm, mục tiêu, phương hướng phát triển cho vùng.
Dự thảo Quy hoạch này rất cần được tham vấn sâu, toàn diện hơn cả về mặt khoa học, thực tiễn, hội tụ sự đồng thuận, thống nhất cao giữa các địa phương trong Vùng, các bộ, ngành trung ương, các chuyên gia, nhà khoa học, người dân, doanh nghiệp, thể hiện quyết tâm chính trị của cả Trung ương và đảng bộ, chính quyền địa phương, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng nhấn mạnh.