Việt Nam có cơ hội đi nhanh, đi xa và bền vững

0:00 / 0:00
0:00
(BĐT) - Trò chuyện với Báo Đấu thầu về những đổi thay của đất nước trong 5 năm phát triển kinh tế (2021-2025), PGS. TS. Bùi Quang Tuấn, Phó Chủ tịch Hội Khoa học Kinh tế Việt Nam, nguyên Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam chia sẻ, đó là chặng đường không dễ dàng với kinh tế Việt Nam.
Nhiều sàn thương mại điện tử lớn trên thế giới đang phân phối các sản phẩm từ Việt Nam đến người tiêu dùng toàn cầu. Ảnh: Tiến Thịnh
Nhiều sàn thương mại điện tử lớn trên thế giới đang phân phối các sản phẩm từ Việt Nam đến người tiêu dùng toàn cầu. Ảnh: Tiến Thịnh

Song nhiều công trình hạ tầng hiện đại tiếp tục được hoàn thiện, nhiều tuyến đường cao tốc trải dài cả nước đã và đang mở ra cơ hội lớn cho từng con người, từng miền đất…, vị thế và thương hiệu Việt Nam ngày càng được cải thiện trên thế giới. Đó là những yếu tố đáng để nhân lên niềm tin về triển vọng tăng trưởng đột phá của đất nước giai đoạn tới.

PGS. TS. Bùi Quang Tuấn

PGS. TS. Bùi Quang Tuấn

Dấn bước để về đích kế hoạch 5 năm

Năm 2024 vừa đi qua với dấu ấn tăng trưởng vượt kế hoạch. Nền kinh tế bước vào năm cuối của Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021-2025 với nhiều kỳ vọng tích cực. Ông cảm nhận gì về chặng đường 4 năm qua, bước tiến nào thực sự vững chắc và những chỉ báo nào khiến ông lo ngại?

Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm tại Nghị quyết 16/2021/QH15 hướng tới mục tiêu phát triển toàn diện, bền vững, tạo đà đưa đất nước tăng tốc mạnh mẽ trong giai đoạn tiếp theo. Tuy nhiên, trong cả giai đoạn này, các động lực tăng trưởng của nền kinh tế gặp một số trở ngại do tác động của đại dịch Covid-19, thiên tai, bất ổn và xung đột địa chính trị trên thế giới. Ngay đầu giai đoạn, năm 2021, GDP của Việt Nam chỉ tăng 2,58% sau đó bật tăng lên mức 8,02% năm 2022, lùi về mức tăng 5,05% năm 2023 và tăng mạnh mẽ trở lại ở mức 7,09% năm 2024. Các bước tăng tốc - giảm tốc đan xen nhau cho thấy, việc đạt được các mục tiêu tăng trưởng kinh tế không hề dễ dàng. Mừng là mức tăng trưởng 7,09% năm 2024 là cao trong khu vực và trên thế giới, đây là điểm sáng rất đáng ghi nhận. Bên cạnh đó, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam và thu hút FDI đạt mức cao nhất từ trước đến nay. Tiêu dùng của dân cư thể hiện qua tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ cũng khôi phục trở lại, đầu tư công và tư được phát huy, nhiều công trình hạ tầng lớn được xây dựng và hoàn thiện. Kinh tế Việt Nam đã phục hồi khá ngoạn mục sau những năm chịu ảnh hưởng bởi Covid-19. Đây là thành tích rất đáng tự hào, nhất là khi chúng ta đặt vào trong bối cảnh kinh tế thế giới còn nhiều khó khăn và bất định.

Tuy nhiên, tăng trưởng chậm của năm 2021 và năm 2023 sẽ có ảnh hưởng đến thành tích chung của cả giai đoạn 5 năm 2021-2025. Vì thế, nếu năm 2025, GDP tăng trưởng 7,5% thì nền kinh tế cũng chỉ có thể đạt mức tăng trưởng bình quân 6%, thấp hơn mục tiêu 6,5-7% đặt ra cho cả giai đoạn. Nếu muốn đạt mục tiêu 6,5% cho cả giai đoạn thì tăng trưởng năm 2025 phải 10%. Đây là mục tiêu rất khó. Trong các chỉ tiêu của Nghị quyết 16 đề ra thì GDP bình quân đầu người phải đạt 4.700 - 5.000 USD vào năm 2025. Với đà tăng trưởng như hiện nay thì GDP bình quân đầu người có thể đạt trong khoảng này. Tuy nhiên, một số chỉ tiêu có xu hướng tăng trong thời gian gần đây song vẫn khó có khả năng hoàn thành mục tiêu, như: tỷ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo trong GDP; đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng; đóng góp của kinh tế số vào GDP; năng suất lao động… Trong đó, tăng năng suất lao động là vấn đề cần đáng lưu tâm bởi mục tiêu tốc độ tăng năng suất lao động xã hội bình quân được đặt ra là 6,5% nhưng khả năng chúng ta chỉ đạt 5,5%. Tăng năng suất là một khía cạnh quan trọng của chất lượng tăng trưởng, chúng ta cần phải chú ý đến chiều cạnh này của chất lượng tăng trưởng.

Trong nỗ lực thúc đẩy đà tăng trưởng và cải thiện chất lượng tăng trưởng, Đảng và Nhà nước đã đề ra nhiều giải pháp đột phá, ông đánh giá như thế nào về những giải pháp này?

Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã xác định 6 nhiệm vụ trọng tâm, 3 đột phá chiến lược trong nhiệm kỳ Đại hội. Ba đột phá chiến lược bao gồm hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển; phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao; xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại.

Trong ba đột phá đó, có thể nhận thấy rõ nhất đột phá của kết cấu hạ tầng giao thông và năng lượng. Từ năm 2021 đến nay, chúng ta đã triển khai nhiều dự án lớn về hạ tầng. Về giao thông đường bộ, hiện nước ta có hơn 2.000 km đường cao tốc, mục tiêu đạt 3.000 km năm 2025 và khoảng 5.000 km đường vào năm 2030. Dự án sân bay quốc tế Long Thành cũng dự kiến hoàn thành vào năm 2026. Dự án đường dây 500 kV mạch 3 với vốn đầu tư gần 1 tỷ USD và gần 520 km đường dây giúp kéo điện ra miền Bắc đã được khánh thành… Những công trình này sẽ đóng góp rất quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội.

Trong khi đó, 2 mũi đột phá còn lại là thể chế và nguồn nhân lực vẫn chưa thực sự khởi sắc. Về thể chế, bên cạnh nhiều vướng mắc về pháp lý đã được tháo gỡ trong thời gian gần đây, ví dụ một luật sửa nhiều luật, nhiều chính sách can thiệp tích cực của Chính phủ để phục hồi xuất khẩu, phục hồi tăng trưởng, ổn định kinh tế vĩ mô…, vẫn còn nhiều rào cản trong thực thi, gây khó cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Nguồn nhân lực chất lượng cao cũng chưa có nhiều đột phá so với yêu cầu đặt ra, trừ Nghị định 179/2024/NĐ-CP được ban hành cuối năm 2024 về chính sách thu hút, trọng dụng người tài. Riêng khoa học công nghệ, mới đây Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết 57-NQ/TW về đột phá khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Đây có thể được coi là một đột phá nhưng cần phải được triển khai nhanh trong năm 2025.

Khơi thông động lực cho tương lai bứt phá

Tại các công điện được ban hành cuối năm 2024, Thủ tướng Chính phủ nêu rõ chủ trương phấn đấu đạt mức tăng trưởng 2 con số trong năm 2025, yêu cầu tiếp tục thực hiện các đột phá chiến lược, trọng tâm là cải cách thể chế, làm mới các động lực tăng trưởng truyền thống và tạo đột phá, thúc đẩy các động lực tăng trưởng mới. Ông bình luận gì về mục tiêu này?

Việc đặt mục tiêu tăng trưởng 2 con số trong năm 2025 thể hiện khát vọng lớn của cả nước trước một giai đoạn phát triển có tính bước ngoặt để chuẩn bị bước sang kỷ nguyên mới. Nếu năm 2025 đạt mức tăng trưởng 10% thì chúng ta sẽ hoàn thành mục tiêu tăng trưởng đề ra của cả giai đoạn 2021-2025 là 6,5%. Mục tiêu này là định hướng để chúng ta phấn đấu. Công điện 137/CĐ-TTg và Công điện 140/CĐ-TTg được Thủ tướng Chính phủ ban hành cuối năm 2024 đã bao quát đầy đủ các giải pháp cần phải thực hiện.

Tuy nhiên, mục tiêu tăng trưởng hai con số là rất thách thức. Trong gần 40 năm Đổi mới, kinh tế Việt Nam chưa từng đạt mức tăng trưởng 2 con số, chỉ có một số năm đạt trên 9%. Do đó, mục tiêu tăng trưởng GDP 10% đòi hỏi chúng ta phải có nỗ lực rất lớn và phải có đột phá mạnh mẽ.

Đầu tiên là phải đẩy mạnh đột phá về thể chế. Phải hoàn thiện và tạo ra thể chế để giải phóng sức sản xuất. Cần xác định doanh nghiệp, hộ gia đình là chủ thể chính của nền kinh tế, là động cơ chính của cỗ máy tăng trưởng. Do đó, mọi đột phá thể chế phải hướng tới việc giúp doanh nghiệp tận dụng được cơ hội sản xuất kinh doanh trong bối cảnh mới, có cơ chế khuyến khích doanh nghiệp đầu tư đổi mới công nghệ, chuyển đổi số, đổi mới sáng tạo. Thể chế phải đi trước và mở đường, giải phóng nguồn lực để doanh nghiệp phát huy hết tiềm năng trong nền kinh tế. Đây cũng là vấn đề cốt yếu để thúc đẩy các động lực tăng trưởng truyền thống, trong đó thúc đẩy đầu tư công, đầu tư tư nhân là rất quan trọng.

Tiếp đến, cần khai thác dư địa của các động lực tăng trưởng mới từ kinh tế số, kinh tế xanh, của các ngành công nghiệp công nghệ cao, ứng dụng trí tuệ nhân tạo, khai thác dữ liệu, của các đô thị mới theo hướng thông minh, công nghệ hiện đại… Các đột phá trong các lĩnh vực này có thể giúp kinh tế nước ta đi nhanh.

Trong 5 năm tiếp theo, 2026 - 2030, Việt Nam đặt mục tiêu tăng trưởng GDP bình quân khoảng 7,5 - 8,5%/năm, GDP bình quân đầu người đạt 7.400 - 7.600 USD. Ông đánh giá như thế nào về các giải pháp thực hiện và triển vọng hoàn thành mục tiêu này?

Để đạt mục tiêu trở thành nước thu nhập trung bình cao vào năm 2030 thì tăng trưởng kinh tế giai đoạn 2026 - 2030 phải đạt 7,5 - 8%. Đây là mục tiêu rất thách thức, bởi mấy lý do. Thứ nhất, theo quy luật, nền kinh tế càng lớn thì tăng trưởng càng thấp đi. Bây giờ nước ta đã đạt quy mô khá lớn, khoảng 450 tỷ USD, do vậy để tăng trưởng cao sẽ khó hơn rất nhiều so với nền kinh ở mức 100 tỷ USD. Thứ hai, về lịch sử, giai đoạn đạt tăng trưởng cao nhất là vào 1991 - 1995, đạt 8,2%. Từ đó đến nay, chúng ta chưa có giai đoạn nào đạt được mức này. Thứ ba, nếu đi tuần tự như hiện nay mà không có đột phá thì dư địa của các yếu tố nền tảng của tăng trưởng sẽ không thể phát huy được nhiều. Thứ tư, chúng ta chưa biết bối cảnh bên ngoài sẽ còn thuận lợi cho xuất khẩu nữa không trong khi chủ nghĩa dân tộc lên ngôi, chính sách của Tổng thống Hoa Kỳ với các đối tác thường xuyên thặng dư thương mại với Mỹ rất có thể sẽ bị áp thuế nhập khẩu như là đã làm với Trung Quốc. Các hàng rào thuế quan xanh đang dựng lên ở EU, cũng là rào cản đáng kể đối với hàng xuất khẩu của Việt Nam.

Xét về các động lực tăng trưởng, nếu nhìn từ phía tổng cầu, thì tiêu dùng cuối cùng có vai trò rất quan trọng, nhưng lại chưa được phát huy. Tiêu dùng của dân cư và tiêu dùng của Chính phủ chiếm khoảng 2/3 GDP. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ chỉ tăng 5,9% năm 2024 là mức tăng thấp. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tăng bình quân trong 4 năm qua cũng chỉ 7 - 8%, không cao dù các giải pháp kích cầu tiêu dùng đã được triển khai khá mạnh mẽ. Điều này có thể lý giải là người dân vẫn ngại chi tiêu với tâm lý “tích cốc phòng cơ” sau giai đoạn nền kinh tế gặp nhiều rủi ro.

Về đầu tư, dù Chính phủ đã có nhiều giải pháp rất quyết liệt, song giải ngân đầu tư công vẫn còn nhiều trở ngại. Đầu tư từ khu vực tư nhân chưa có nhiều khởi sắc và chưa mạnh mẽ, đặc biệt là đầu tư cho nghiên cứu và phát triển (R&D). Nếu không thay đổi, chúng ta chỉ có thể tiếp tục phát huy dư địa cũ một cách thông thường chứ chưa thể có đột phá.

Về xuất khẩu, nguồn cung hàng hóa trên toàn cầu đang ở mức cao, đặc biệt là những nước xuất khẩu các mặt hàng tương đồng với Việt Nam. Chẳng hạn, Trung Quốc đang đối mặt với tình trạng khủng hoảng thừa và tìm cách giảm giá hàng hóa để đẩy mạnh xuất khẩu. Chủ nghĩa dân tộc và bảo hộ ở nhiều quốc gia đang dựng lên các hàng rào thuế quan để hạn chế nhập khẩu nhằm bảo hộ hàng trong nước. Tổng thống mới của Mỹ - ông Donal Trump là một ẩn số. Lưu ý là Việt Nam đang ở trong danh sách các quốc gia cần giám sát thao túng tiền tệ đối với Mỹ. Do đó, xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam khó có thể có những đột phá so với mức tăng trưởng đều đặn 14 - 15% vừa qua.

Như vậy, các động lực truyền thống sẽ tiếp tục đóng góp cho tăng trưởng kinh tế, nhưng để tạo đột phá thì dư địa của các trụ cột này không còn nhiều. Theo đó, nền kinh tế cần dựa vào các động lực mới, trong đó có kinh tế số, kinh tế công nghệ, kinh tế xanh. Tức là phải có cách tiếp cận từ phía cung: đầu tư và phát huy vai trò của khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và nguồn nhân lực chất lượng.

Về công nghệ, Việt Nam hiện có lợi thế dân số đông và trẻ, nên có thể phát triển nền kinh tế số, thúc đẩy quá trình chuyển đổi số để tạo đòn bẩy cho các ngành, lĩnh vực và doanh nghiệp trong nền kinh tế tăng tốc mạnh mẽ. Năm 2023, ngành kinh tế số đã đóng góp khoảng 16,5% GDP của Việt Nam, với tốc độ tăng trưởng trên 20%/năm. Đây là một con số ấn tượng. Nếu kinh tế số đạt mục tiêu chiếm 20% GDP như đã đặt ra tại Nghị quyết 16 cho giai đoạn 2021 - 2025 thì sẽ kéo tăng trưởng kinh tế lên mức cao.

Bên cạnh đó, các ngành mới như chuyển đổi xanh, năng lượng tái tạo, dữ liệu lớn, thị trường carbon... cũng có tiềm năng thúc đẩy kinh tế tăng tốc. Chẳng hạn, với diện tích bao phủ rừng hơn 42%, rồi ứng dụng công nghệ xanh, giảm phát thải, thị trường tín chỉ carbon đang mở ra cơ hội lớn cho nhiều doanh nghiệp Việt Nam. Ở đâu có cơ hội thì ở đó sẽ có doanh nghiệp và dòng vốn đầu tư đến. Do đó, cần có các thể chế chính sách thuận lợi tạo điều kiện cho doanh nghiệp tiếp cận cơ hội này.

Để tận dụng các cơ hội phát triển kinh tế, yếu tố quan trọng nhất là đầu tư cho con người và công nghệ. Tỷ lệ đầu tư cho R&D của Việt Nam hiện ở mức rất thấp, chỉ bằng khoảng 1/4 mức trung bình của thế giới. Năm 2023, mức đầu tư R&D so với GDP của Việt Nam là 0,4%, thấp hơn mức trung bình của khu vực Đông Nam Á. Thái Lan là 1,3%, Singapore là 2,2%, Malaysia là 1% GDP. Theo một khảo sát của Viện Kinh tế Việt Nam, chỉ có khoảng 12% doanh nghiệp Việt Nam đầu tư cho R&D, một tỷ lệ rất nhỏ.

Thế giới đang bước vào một cuộc đua của công nghệ. Do vậy, cần phải khuyến khích doanh nghiệp chú trọng đầu tư cho ứng dụng công nghệ. Cần thúc đẩy tinh thần dân tộc trong từng doanh nghiệp và cần có chính sách có tính mở đường, dẫn dắt, hỗ trợ của Chính phủ trong đầu tư công nghệ, chuyển đổi số, phát triển hạ tầng số. Thực tế, nhiều sản phẩm công nghệ thương hiệu Việt đang cạnh tranh tốt trên thị trường thế giới. Tôi tin là doanh nghiệp Việt Nam có thể làm được nếu có một hệ sinh thái thuận lợi đi cùng, có tinh thần sáng tạo và kiên trì đổi mới của bản thân các doanh nghiệp. Giải pháp phát triển hệ sinh thái lấy doanh nghiệp làm trung tâm theo hướng đổi mới sáng tạo là rất quan trọng trong kỷ nguyên của công nghệ, giúp chúng ta đi nhanh và đi xa, bền vững.