Hợp tác công tư phát triển khoa học công nghệ: Thêm cơ chế ưu đãi, chia sẻ rủi ro

0:00 / 0:00
0:00
(BĐT) - Bộ Tài chính đang hoàn thiện Dự thảo Nghị định của Chính phủ về cơ chế, chính sách hợp tác công tư trong lĩnh vực phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia (gọi tắt là Dự thảo Nghị định). Qua đó, góp phần tạo hành lang pháp lý rõ ràng, thúc đẩy sự tham gia của khu vực tư nhân vào lĩnh vực này.
Bộ Tài chính đề xuất bổ sung các hình thức hợp tác công tư khác ngoài những hình thức đã quy định tại Luật PPP, Luật Quản lý, sử dụng tài sản công để khơi thông nguồn lực phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số. Ảnh: Lê Tiên
Bộ Tài chính đề xuất bổ sung các hình thức hợp tác công tư khác ngoài những hình thức đã quy định tại Luật PPP, Luật Quản lý, sử dụng tài sản công để khơi thông nguồn lực phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số. Ảnh: Lê Tiên

Mở rộng hình thức hợp tác

Theo Bộ Tài chính, trong thời gian qua, hoạt động hợp tác công tư trong lĩnh vực khoa học công nghệ (KHCN) ở Việt Nam đã được triển khai thực hiện thông qua các hình thức theo quy định của pháp luật về đầu tư theo phương thức PPP và liên doanh, liên kết theo quy định của Luật Quản lý, sử dụng tài sản công. Tính đến năm 2025, trong lĩnh vực này đã có một số dự án đã được triển khai. Tuy nhiên, việc thực hiện các dự án/hoạt động hợp tác công tư trong lĩnh vực KHCN vẫn còn khá hạn chế, một phần bởi những nguyên nhân khách quan như hình thức hợp tác mới, nhiều rủi ro..., một phần do pháp luật, cơ chế, chính sách hiện hành còn những tồn tại.

Tại cuộc hội thảo lấy ý kiến Dự thảo Nghị định, Bộ trưởng Bộ Tài chính Nguyễn Văn Thắng cho biết, Nghị quyết số 57-NQ/TW đã xác định các chủ trương, giải pháp quan trọng nhằm tạo đột phá phát triển KHCN, đổi mới sáng tạo (ĐMST), chuyển đổi số (CĐS) quốc gia, trong đó đẩy mạnh hợp tác công tư là một trong các giải pháp quan trọng. Thực hiện Nghị quyết 57, Chính phủ giao Bộ Tài chính chủ trì xây dựng Nghị định nhằm tháo gỡ điểm nghẽn thể chế, mở rộng không gian hợp tác công tư, huy động hiệu quả nguồn lực cho phát triển các lĩnh vực chiến lược này. Bộ Tài chính xác định đây là nhiệm vụ quan trọng, cấp bách, thể hiện trách nhiệm chính trị của Bộ trong việc hiện thực hóa đường lối của Đảng về đổi mới mô hình tăng trưởng, cải cách cơ chế tài chính, nhanh chóng đưa KHCN, ĐMST, CĐS thực sự trở thành động lực trung tâm của tăng trưởng kinh tế và phát triển bền vững đất nước.

Trên cơ sở ý kiến của các bộ, cơ quan, doanh nghiệp, Bộ Tài chính đã soạn thảo Dự thảo Nghị định đồng thời với việc xây dựng Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung các Luật thuộc lĩnh vực tài chính, trong đó có Luật PPP, Luật Quản lý sử dụng tài sản công.

Theo đại diện Cục Quản lý đấu thầu (Bộ Tài chính), Dự thảo Nghị định tập trung vào việc khơi thông nguồn lực phát triển lĩnh vực KHCN, ĐMST, CĐS thông qua các cơ chế hợp tác đa dạng và nguồn tài chính linh hoạt. Nghị định được xây dựng theo hướng mở rộng, bổ sung các hình thức hợp tác công tư khác ngoài những hình thức đã được quy định trong Luật PPP, Luật Quản lý, sử dụng tài sản công. Cụ thể, Dự thảo Nghị định quy định hình thức hợp tác công tư trong lĩnh vực KHCN, ĐMST, CĐS gồm hợp tác công tư theo pháp luật về PPP; hợp tác công tư theo cơ chế sử dụng tài sản công vào mục đích kinh doanh, liên doanh, liên kết theo quy định của pháp luật về quản lý sử dụng tài sản công; các hình thức hợp tác công tư khác.

Với mỗi hình thức hợp tác, Dự thảo Nghị định định hướng các nhóm sản phẩm, dịch vụ và chủ thể thực hiện phù hợp nhằm tạo điều kiện thuận lợi khi áp dụng. Dự thảo Nghị định quy định cụ thể cơ chế, chính sách ưu đãi, hỗ trợ, bảo đảm đầu tư vượt trội; phân cấp mạnh mẽ, đơn giản tối đa quy trình, rút ngắn thủ tục, tinh gọn nội dung cho phù hợp với đặc thù của KHCN, ĐMST, CĐS, tạo điều kiện triển khai nhanh, linh hoạt, hiệu quả. Đồng thời, quy định rõ trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước, tổ chức chủ trì và các nhà đầu tư, bảo đảm tính minh bạch, hiệu quả và kiểm soát rủi ro trong tổ chức thực hiện...

Nhiều cơ chế, chính sách ưu đãi, hỗ trợ, bảo đảm đầu tư vượt trội nhằm tạo điều kiện triển khai nhanh, linh hoạt, hiệu quả các dự án hợp tác công tư trong lĩnh vực khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Ảnh: Tiên Giang

Nhiều cơ chế, chính sách ưu đãi, hỗ trợ, bảo đảm đầu tư vượt trội nhằm tạo điều kiện triển khai nhanh, linh hoạt, hiệu quả các dự án hợp tác công tư trong lĩnh vực khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Ảnh: Tiên Giang

Nhiều nỗi lo của nhà đầu tư được chia sẻ

Đối với hợp tác công tư theo quy định của pháp luật về PPP, dù Luật PPP đã có, mở rộng tối đa không gian thu hút tư nhân tham gia vào lĩnh vực này, nhưng vẫn chưa đủ sức hấp dẫn. Một trong những lo ngại của nhà đầu tư khi tham gia đầu tư phát triển KHCN, ĐMST, CĐS là tính rủi ro của loại hình dự án này. Do đó, nhà đầu tư cần những cơ chế ưu đãi, bảo đảm đầu tư phù hợp, rõ ràng để yên tâm tham gia các hợp đồng PPP.

Dự thảo Nghị định quy định các cơ chế ưu đãi, hỗ trợ, bảo đảm đầu tư của Nhà nước đối với dự án PPP KHCN, CĐS. Ví dụ, áp dụng tỷ lệ vốn nhà nước tham gia trong dự án PPP đến 70% tổng mức đầu tư để hỗ trợ xây dựng công trình và chi trả kinh phí bồi thường, giải phóng mặt bằng, hỗ trợ, tái định cư; hỗ trợ xây dựng công trình tạm. Nhà đầu tư được áp dụng mức chia sẻ 100% phần chênh lệch giảm giữa doanh thu thực tế và doanh thu trong phương án tài chính khi doanh thu thực tế thấp hơn mức doanh thu trong phương án tài chính, điều kiện áp dụng theo quy định tại khoản 2 Điều 82 của Luật PPP. Đồng thời, áp dụng cơ chế chấm dứt hợp đồng trước thời hạn khi doanh thu thực tế thấp hơn 50% doanh thu trong phương án tài chính theo yêu cầu của nhà đầu tư. Nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án được Nhà nước chi trả toàn bộ kinh phí đầu tư, xây dựng hạ tầng, nghiên cứu khoa học và các chi phí vận hành hợp pháp liên quan đến hoạt động KHCN khi đáp ứng các điều kiện theo quy định của Luật PPP.

Nhiều doanh nghiệp công nghệ đánh giá cao sự cần thiết ban hành nghị định này, để mở rộng, đa dạng hóa các hình thức hợp tác công tư, tạo điều kiện tiếp cận và chia sẻ rủi ro cho khu vực tư nhân bằng các quy định về hỗ trợ vốn Nhà nước tham dự án ở mức cao nhất, cơ chế chia sẻ phần giảm doanh thu vượt trội, cơ chế chấm dứt hợp đồng sớm khi dự án thất bại…

Tại Hội thảo, đại diện FPT góp ý cần bổ sung cơ chế bảo vệ nhà đầu tư PPP vì vòng đời đầu tư công nghệ thông tin cứ sau 5 năm là cần tái đầu tư. Do đó, cần quỹ khấu hao, sử dụng lợi nhuận để chia vào quỹ tái đầu tư trước khi phân chia cho 2 bên.

Đại diện BKAV góp ý, cần làm rõ thêm về vấn đề định giá tài sản, vì tài sản vô hình trong công nghệ chiếm hơn 80%. Mặc dù Thông tư số 37/2024/TT-BTC (ban hành Chuẩn mực thẩm định giá Việt Nam về thẩm định giá tài sản vô hình) đã hướng dẫn chuẩn định giá tài sản vô hình, nhưng nhiều đơn vị về tài chính chưa dám chấp nhận. Theo đó, BKAV kiến nghị thành lập Quỹ định giá quốc gia, Hội đồng định giá quốc gia về tài sản vô hình (gồm các nhà khoa học và chuyên gia được bỏ phiếu mà không phải chịu trách nhiệm khi định giá).

Đại diện BKAV cũng kiến nghị phân biệt loại dự án nào nên làm PPP, ví dụ dự án đang có nhu cầu trên thị trường, còn dự án chưa rõ ràng đầu ra thì nên được đầu tư bởi quỹ đầu tư mạo hiểm, nguyên tắc phi lợi nhuận.

Ý kiến khác từ Bộ Tài chính cho rằng, cần phân biệt rõ đầu tư thương mại của doanh nghiệp, đầu tư công và hợp tác công tư. PPP là hình thức Nhà nước tham gia bằng ngân sách nhà nước. Giữa doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp tư nhân có thể hợp tác theo hợp đồng thương mại, nhưng khi liên quan đến vốn nhà nước sẽ phải bảo đảm các quy định riêng. Các đơn vị cần phân tích kỹ để lựa chọn hình thức đầu tư phù hợp, bảo đảm hài hòa lợi ích, hiệu quả đầu tư.

Tin cùng chuyên mục