Thúc đẩy nguồn lực tư nhân phát triển hạ tầng đất nước

0:00 / 0:00
0:00
(BĐT) - Khẳng định khu vực kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế, Nghị quyết 68-NQ/TW của Bộ Chính trị nêu rõ: Nhà nước chủ động có chính sách đặt hàng, đấu thầu hạn chế hoặc chỉ định thầu hoặc có chính sách ưu đãi khuyến khích khu vực kinh tế tư nhân tham gia các lĩnh vực chiến lược, các dự án lớn, trọng điểm...
Thúc đẩy nguồn lực tư nhân phát triển hạ tầng đất nước

Bà Cao Thị Ngọc Quỳnh, Giám đốc khối khách hàng tổ chức, Công ty CP Chứng khoán VNDIRECT cho rằng, nguồn lực tư nhân đang có nhiều cơ hội tham gia phát triển đất nước, trước hết là vào các dự án hạ tầng.

Theo bà, Nghị quyết 68/NQ-TW đang mở ra những cơ hội nào cho khu vực kinh tế tư nhân?

Nghị quyết 68 đã mở đường cho các cải cách thể chế được mong đợi từ lâu như bảo vệ quyền sở hữu và quyền tự do kinh doanh, tạo sân chơi bình đẳng giữa doanh nghiệp Nhà nước và tư nhân, nhất là trong đấu thầu và tiếp cận đất đai, tín dụng, khơi thông các nguồn lực xã hội hoá, đặc biệt trong hạ tầng số, năng lượng và logistics. Từ cuộc cách mạng về tư duy, tôi tin rằng, các giải pháp chính sách tới đây sẽ có nhiều điểm mới, mở đường cho các doanh nghiệp có tiềm lực, uy tín tại Việt Nam được làm những dự án lớn để lớn mạnh hơn.

Không chỉ tạo điều kiện cho khối doanh nghiệp lớn, Nghị quyết 68 có nhiều giải pháp hỗ trợ cho cộng đồng doanh nghiệp nói chung như mở rộng quỹ bảo lãnh tín dụng, triển khai hạn mức tín dụng xanh với lãi suất ưu đãi, cho phép các doanh nghiệp được tính vào chi phí khi xác định thu nhập chịu thuế của doanh nghiệp đối với hoạt động nghiên cứu và phát triển bằng 200% chi phí thực tế của hoạt động này, phát triển vốn mạo hiểm trong nước thông qua mô hình Nhà nước và tư nhân cùng đầu tư (co-investment)…

Nếu được triển khai hiệu quả, Nghị quyết 68 có thể giúp xây dựng một hệ sinh thái khu vực tư nhân ba tầng, gồm các tập đoàn lớn dẫn dắt - các doanh nghiệp vừa và nhỏ (SME) vệ tinh và các startup đổi mới sáng tạo, định vị khu vực này trở thành trụ cột trung tâm của nền kinh tế Việt Nam đến năm 2045.

Để tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững, một trong những việc Nhà nước đang thực hiện là đầu tư mạnh mẽ vào hạ tầng. Ở phần việc này, nguồn lực đầu tư vẫn chủ yếu thuộc khu vực công, theo bà vì sao?

Việc huy động vốn cho các dự án hạ tầng tại Việt Nam trong những năm gần đây có nhiều chuyển biến tích cực, trong đó một số dự án có sự đa dạng về nguồn vốn và thu hút khu vực tư nhân. Chính phủ cũng đã giảm phụ thuộc vào ngân sách nhà nước, chủ động tìm kiếm và huy động nhiều nguồn vốn khác như trái phiếu chính phủ, trái phiếu địa phương, vốn ODA từ các tổ chức quốc tế (như World Bank, ADB, JICA), vốn vay thương mại với lãi suất ưu đãi. Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư (PPP) với nhiều điểm mới như mở rộng quy mô dự án PPP, bãi bỏ quy định vốn tối thiểu, cho phép thực hiện trở lại các dự án BT được kỳ vọng tạo đột phá trong thu hút khu vực kinh tế tư nhân đầu tư vào các dự án kết cấu hạ tầng, dịch vụ công.

Tuy nhiên, khung pháp lý chưa đồng bộ và năng lực quản lý dự án còn hạn chế gây nhiều khó khăn cho các nhà đầu tư trong quá trình triển khai thực tế. Yêu cầu cấp bách hiện tại để đạt được mức tăng trưởng kỳ vọng theo chỉ đạo của Chính phủ cũng như huy động nhiều hơn khu vực kinh tế tư nhân vào phát triển hạ tầng là cần hoàn thiện khung pháp lý, đơn giản hóa các quy định của PPP, nâng cao tính minh bạch, đào tạo đội ngũ quản lý chuyên nghiệp và tăng ưu đãi thực tế.

Việc huy động nguồn lực tài chính ngoài ngân sách cho các dự án hạ tầng thời gian qua có điểm trở ngại nào, theo bà?

Thông tin từ Viện Chiến lược và Phát triển giao thông vận tải (Bộ Xây dựng) cho biết, tổng nhu cầu vốn đầu tư hạ tầng giao thông đến năm 2030 khoảng 2.069 nghìn tỷ đồng, chưa bao gồm chi phí bảo trì hạ tầng. Việt Nam khó có thể đáp ứng được nhu cầu vốn nếu chỉ dựa vào nguồn ngân sách nhà nước và các tổ chức tài chính trong nước. Do đó, việc huy động nguồn lực tài chính ngoài ngân sách cho các dự án hạ tầng tại Việt Nam là hướng đi tất yếu.

Tuy nhiên, quá trình huy động vốn ngoài ngân sách vẫn phải đối mặt với nhiều trở ngại đáng kể. Luật PPP được ban hành năm 2021 đã tạo bước tiến lớn, nhưng nhiều quy định vẫn thiếu hướng dẫn chi tiết, gây khó khăn cho các nhà đầu tư trong việc đánh giá rủi ro. Cơ chế chia sẻ rủi ro giữa Nhà nước và tư nhân chưa hợp lý, đặc biệt trong các dự án có mức độ rủi ro cao như giao thông và môi trường.

Các chính sách ưu đãi như miễn giảm thuế, hỗ trợ lãi suất, hoặc bảo lãnh vay vốn còn hạn chế so với nhu cầu của nhà đầu tư tư nhân, đặc biệt trong bối cảnh kinh tế toàn cầu biến động liên tục trong những năm gần đây. Việc những quy định để hỗ trợ doanh nghiệp tư nhân tham gia phát triển hạ tầng chưa được triển khai đồng bộ và chưa hoàn thiện đã làm giảm sức hút của các dự án PPP.

Trong khi đó, các dự án hạ tầng thường có suất đầu tư lớn, vòng đời dài (20 - 30 năm), rủi ro cao, nên việc thu hút nhà đầu tư tư nhân là không dễ. Nhiều tổ chức tín dụng trong nước hạn chế cấp vốn cho các dự án PPP do lo ngại rủi ro. Nhiều ngân hàng yêu cầu nhà đầu tư phải bổ sung tài sản bảo đảm khác và chỉ cho vay tối đa 50 - 60% tổng mức đầu tư. Tỷ lệ tín dụng cho các dự án BT, BOT giao thông chỉ chiếm 1% tổng dư nợ toàn nền kinh tế.

Hơn nữa, các nhà đầu tư tư nhân thường phải chịu lãi suất vay cao hoặc khó huy động vốn thứ cấp do mức độ tín nhiệm của chính nhà đầu tư cũng như dự án thấp. Bên cạnh đó, các thủ tục hành chính thường kéo dài, làm tăng chi phí và giảm hiệu quả tài chính.

Ở khía cạnh khác, tâm lý lo ngại và niềm tin yếu cũng là một trở ngại. Những bất cập liên quan đến dự án BOT trước đây khiến nhà đầu tư tư nhân thận trọng hơn khi tham gia các dự án hạ tầng.

Quốc hội đang xem xét sửa đổi 30 văn bản luật để tạo nền tảng pháp lý mới, trong đó có mục tiêu mở đường cho khối kinh tế tư nhân bứt phá. Vậy về phía doanh nghiệp, theo bà, đâu là giải pháp nên làm để gia tăng năng lực tài chính, sẵn sàng tham gia dự án lớn khi có cơ hội?

Để gia tăng năng lực tài chính, doanh nghiệp cần có giải pháp, chiến lược huy động vốn từ cộng đồng, xã hội, trong đó thị trường chứng khoán là một kênh hữu ích, bên cạnh kênh huy động vốn tín dụng của doanh nghiệp.

Về lý thuyết, doanh nghiệp hoàn toàn có cơ hội huy động vốn thông qua phát hành cổ phiếu, trái phiếu hoặc tìm kiếm các nhà đầu tư chiến lược trong và ngoài nước để hợp tác, mở rộng khả năng phát triển. Tuy nhiên, để thực hiện được, doanh nghiệp phải xây dựng được niềm tin với nhà đầu tư, với thị trường thông qua hàng loạt các nỗ lực cần chuẩn bị một cách bài bản. Chẳng hạn, một doanh nghiệp niêm yết sẽ được đánh giá cao hơn về ý thức minh bạch, thực hành quản trị công ty nghiêm túc hơn so với doanh nghiệp chưa niêm yết. Thực tế, nước ta có trên 800.000 doanh nghiệp đang hoạt động, nhưng mới có khoảng 800 doanh nghiệp niêm yết trên Sở Giao dịch chứng khoán TP. HCM và Hà Nội. Tôi cho rằng, đây là điểm cần cải thiện để tốt hơn cho doanh nghiệp, cũng như thị trường vốn và nền kinh tế nói chung.

Về phía Nhà nước, để có nguồn lực lớn cho đầu tư hạ tầng, theo tôi, cũng cần đa dạng hóa hơn nữa kênh huy động vốn. Nên tận dụng tối đa các nguồn vốn ngoài ngân sách như đầu tư tư nhân, trái phiếu doanh nghiệp, tín dụng xanh… Cần đơn giản hóa thủ tục tiếp cận FDI và ODA, giảm yêu cầu bảo lãnh Chính phủ. Đồng thời, phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp, nhất là trái phiếu xanh và chứng khoán hạ tầng để hỗ trợ các dự án bền vững và dự án trọng điểm.

Tin cùng chuyên mục