Thủ tướng chủ trì Ảnh: VGP |
- 14.00': Hội nghị bắt đầu. Hội nghị được tổ chức dưới hình thức trực tuyến. Tại đầu cầu Hà Nội, dự hội nghị có Bộ trưởng các Bộ: Tài chính, Kế hoạch và Đầu tư, Lao động – Thương binh và Xã hội, Tài nguyên và Môi trường; thành viên Ban Chỉ đạo Đổi mới và Phát triển doanh nghiệp; lãnh đạo các Bộ: Nội vụ, Tư pháp, Quốc phòng, Công an, Thông tin và Truyền thông, Giao thông vận tải, Y tế, Văn hóa Thể thao và Du lịch, Giáo dục và Đào tạo, Công Thương, Xây dựng, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Thanh tra Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
Dự hội nghị còn có lãnh đạo: Ban Kinh tế Trung ương, Văn phòng Trung ương, Ủy ban Kinh tế Quốc hội; Ủy ban Ngân sách Quốc hội, Văn phòng Quốc hội, Văn phòng Chủ tịch nước; Kiểm toán Nhà nước, Đảng ủy Khối doanh nghiệp Trung ương, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam. Chủ tịch, Tổng giám đốc toàn bộ các tập đoàn, tổng công ty Nhà nước, các ngân hàng thương mại.
Thành phần dự hội nghị tại 63 địa phương có lãnh đạo UBND, lãnh đạo Ban Đổi mới doanh nghiệp các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và toàn bộ các doanh nghiệp 100% vốn nhà nước, doanh nghiệp đã cổ phần hóa mà nhà nước nắm giữ cổ phần chi phối tại địa phương.
Làm gì để đẩy nhanh thoái vốn, cổ phần hóa?
Thủ tướng phát biểu khai mạc hội nghị. Ảnh: VGP
- 14.05': Phát biểu khai mạc hội nghị, Thủ tướng nhấn mạnh 2 nội dung cần thảo luận và trả lời cho được là vì sao thoái vốn nhà nước tại doanh nghiệp và cổ phần hóa còn thấp? Giải pháp nào để thoái vốn và cổ phần hóa tốt nhất trong thời gian tới tốt nhất (bảo đảm lợi ích nhà nước, doanh nghiệp, lợi ích xã hội...).
Thủ tướng yêu cầu xác định rõ doanh nghiệp nào Nhà nước cần thoái vốn và doanh nghiệp nào không cần nắm cổ phần chi phối? Cơ chế chính sách về cổ phần hóa, thoái vốn đã được ban hành có còn phù hợp không? Những vấn đề nào mới đặt tra trong quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước có quy mô lớn (chọn nhà đầu tư chiến lược, chọn nhà tư vấn, thoái vốn theo lô, bảo đảm tính công khai, minh bạch trong quá trình cổ phần hóa ...)? Xử lý vấn đề đất đai trong quá trình cổ phần hóa? Việc sắp xếp lại, giải thể, phá sản doanh nghiệp? Thực hiện chính sách đối với lao động dôi dư trong quá trình sắp xếp? Vấn đề tổ chức Đảng trong doanh nghiệp cổ phần hóa...
Chỉ nắm 100% vốn ở DN then chốt
Về mục tiêu, nhiệm vụ giai đoạn 2016-2020: Chính phủ xác định, doanh nghiệp mà Nhà nước nắm giữ 100% vốn và cổ phần chi phối chỉ duy trì trong những lĩnh vực then chốt, thiết yếu; địa bàn quan trọng và quốc phòng an ninh; ứng dụng công nghệ cao, đầu tư lớn, tạo động lực phát triển kinh tế - xã hội mà doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác không đầu tư.
Các doanh nghiệp này cần nâng cao năng lực, hiệu quả hoạt động và khả năng cạnh tranh; kiện toàn đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý và năng lực quản trị theo chuẩn mực quốc tế; được trao quyền chủ động hơn gắn với tăng cường trách nhiệm; được quản lý, giám sát chặt chẽ; công khai, minh bạch về hoạt động sản xuất, kinh doanh; bình đẳng với doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác.
Doanh nghiệp mà Nhà nước không cần nắm giữ 100% vốn hoặc cổ phần chi phối phải thực hiện cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước theo cơ chế thị trường; bảo đảm công khai, minh bạch, có hiệu quả, tránh thất thoát vốn, tài sản của Nhà nước. Qua đó, thực hiện xã hội hóa và phân bổ lại theo cơ chế thị trường các nguồn lực của Nhà nước về nhân lực, đất đai, tài nguyên thiên nhiên, các yếu tố về độc quyền tự nhiên và lợi thế khác để tạo điều kiện phát triển mạnh mẽ doanh nghiệp tư nhân, tạo động lực nâng cao hiệu quả và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế.
Quyết liệt triển khai tái cơ cấu DNNN
-14.15': Phó Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ, Phó Trưởng Ban Thường trực Ban Chỉ đạo đổi mới và Phát triển doanh nghiệp Lê Mạnh Hà trình bày tóm tắt báo cáo tổng kết công tác sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước giai đoạn 2011- 2015 và nhiệm vụ, giải pháp giai đoạn 2016-2020.
Về ban hành cơ chế chính sách, trong giai đoạn 2011 - 2015, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành 69 Nghị định, Nghị quyết, Quyết định, Chỉ thị. Trong đó có 21 văn bản về đổi mới tổ chức, quản lý hoạt động của DNNN; 34 văn bản về sắp xếp, tái cơ cấu, cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước tại doanh nghiệp; 14 Điều lệ tổ chức, hoạt động của các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước. Các Bộ đã ban hành 15 Thông tư hướng dẫn thực hiện các cơ chế, chính sách.
Thực hiện Đề án tổng thể sắp xếp, đổi mới DNNN trực thuộc đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, các bộ, ngành, địa phương, tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước đã sắp xếp được 591 doanh nghiệp (về số lượng doanh nghiệp đạt 96% kế hoạch); trong đó: cổ phần hóa 499 doanh nghiệp và bộ phận doanh nghiệp (đạt 96,3% kế hoạch), sáp nhập, hợp nhất 48 doanh nghiệp, giải thể 17 doanh nghiệp, phá sản 8 doanh nghiệp, bán, giao: 10 doanh nghiệp, chuyển thành công ty TNHH nhiều thành viên 8 doanh nghiệp.
Các đơn vị đạt kết quả cao là: Các Bộ: Giao thông vận tải, Văn hóa - Thể thao và Du lịch, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn; các Tổng công ty: Hàng hải, Đường sắt; các địa phương: Bình Định, Đồng Nai, Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Hải Dương, Khánh Hòa, Lào Cai, Nghệ An, Thanh Hóa, Thái Bình.
Với kết quả sắp xếp 5 năm qua đã nâng tổng số DNNN đã sắp xếp từ trước tới nay là 5.950 doanh nghiệp, trong đó cổ phần hóa là 4.460 doanh nghiệp. Nếu tính thêm số DNNN sắp xếp trong 10 tháng đầu năm 2016 là 60 doanh nghiệp, trong đó cổ phần hóa là 48 doanh nghiệp thì đến nay tổng số DNNN sắp xếp lại là 6.010 doanh nghiệp, trong đó cổ phần hóa 4.508 doanh nghiệp.
Đến nay, sau 15 năm sắp xếp lại, DNNN đã giảm mạnh về số lượng, đặc biệt là những doanh nghiệp quy mô nhỏ, doanh nghiệp kém hiệu quả, doanh nghiệp ở các lĩnh vực Nhà nước không cần nắm giữ. Năm 2001 cả nước có khoảng 6.000 DNNN, dàn trải trên 60 ngành, lĩnh vực, đến năm 2011 có 1.369 DNNN thì đến hết tháng 10 năm 2016 chỉ còn 718 DNNN, tập trung vào 19 ngành, lĩnh vực. Đại bộ phận DNNN có quy mô vừa và lớn, giảm nhiều về số lượng nhưng năng lực và quy mô tăng lên. Mặc dù số lượng chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong khu vực doanh nghiệp (khoảng 0,67%) nhưng DNNN vẫn nộp ngân sách đáng kể, đóng góp lớn nhất vào GDP (DNNN 28,8%, ngoài nhà nước 11,8%, FDI 17,9%).
Tổng quát lại, giai đoạn 2011 - 2015, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các Bộ, ngành, địa phương, tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước đã triển khai quyết liệt tái cơ cấu DNNN và đạt được những kết quả tích cực, cơ bản hoàn thành mục tiêu, nhiệm vụ và kế hoạch đề ra. Cơ chế, chính sách về đổi mới tổ chức, quản lý doanh nghiệp, về tái cơ cấu DNNN đã được ban hành khá đầy đủ, đồng bộ, tạo khung pháp lý thuận lợi để các DNNN hoạt động kinh doanh và tái cơ cấu. Tuy nhiên, một số cơ chế, chính sách liên quan đến sắp xếp, tái cơ cấu DNNN chưa được sửa đổi, bổ sung, ban hành kịp thời.
Sắp xếp, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước đạt kết quả tích cực, số doanh nghiệp sắp xếp đạt 96% kế hoạch, doanh nghiệp cổ phần hóa đạt 96,3% kế hoạch của cả 5 năm. Công tác cổ phần hóa doanh nghiệp đã góp phần hoàn thiện và phát triển thị trường vốn, đặc biệt là thị trường chứng khoán, tạo điều kiện cho doanh nghiệp sau khi cổ phần hóa huy động vốn, đổi mới phương thức quản lý, công nghệ, gắn kết người lao động, ổn định và phát triển trong xu thế hội nhập với kinh tế khu vực và kinh tế thế giới.
Việc bán đấu giá cổ phần công khai trên Sở giao dịch chứng khoán, cung cấp cho thị trường chứng khoán một lượng hàng hóa chất lượng cao; góp phần mở rộng quy mô thị trường, thu hút các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài tham gia; tạo sự ổn định cho thị trường (chất lượng cổ phiếu niêm yết tăng lên), hạn chế tình trạng đầu cơ, chi phối giá cả chứng khoán trên thị trường (do số lượng doanh nghiệp nhiều, quy mô lớn). Bên cạnh đó, việc cổ phần hóa gắn với niêm yết (bán cổ phần lần đầu qua Sở GDCK, thực hiện đăng ký giao dịch và niêm yết đối với doanh nghiệp đủ điều kiện niêm yết ngay) đã tăng cường sự kiểm tra giám sát của xã hội đối với hoạt động của doanh nghiệp (các cổ đông trong và ngoài doanh nghiệp cùng giám sát, nhà đầu tư có cơ hội tiếp xúc nghiên cứu thông qua thông tin trong các bản cáo bạch); tạo áp lực đòi hỏi các doanh nghiệp này phải tiếp cận với phương thức quản trị mới, công khai hơn, minh bạch hơn, tự chủ hơn và hiệu quả hơn; nâng cao tính thanh khoản của cổ phiếu của các đơn vị, tăng khả năng huy động vốn để đầu tư phát triển, nâng cao năng lực sản xuất kinh doanh.
Lao động dôi dư ở các đơn vị thực hiện cổ phần hóa, giao, bán được hưởng chính sách trợ cấp; được hỗ trợ đào tạo, đào tạo lại nghề để bố trí việc làm mới tại doanh nghiệp cổ phần hóa hoặc tự họ thu xếp công việc mới đã góp phần đẩy nhanh tiến trình sắp xếp, cổ phần hóa, duy trì ổn định xã hội.
Các tập đoàn, tổng công ty nhà nước đã tập trung rà soát, loại bỏ những ngành, nghề ít hoặc không liên quan đến ngành, nghề kinh doanh chính, tổ chức lại sản xuất, sắp xếp các đơn vị thành viên, hoàn thành phê duyệt Điều lệ tổ chức và hoạt động; quan tâm đổi mới quản trị doanh nghiệp. Kết thúc thí điểm cổ phần hóa 3 tập đoàn kinh tế. Việc thoái vốn đạt được một số kết quả, tuy nhiên việc thoái vốn đầu tư ra ngoài ngành kinh doanh mới đạt 42% kế hoạch, gặp rất nhiều khó khăn do thị trường không thuận lợi, việc thoái vốn trong lĩnh vực ngân hàng còn phụ thuộc vào quá trình tái cơ cấu các tổ chức tín dụng. Một số bộ, ngành, địa phương chưa tích cực, chủ động, chưa quyết liệt chỉ đạo triển khai thực hiện tái cơ cấu DNNN. Giai đoạn 2016 - 2020 nhiệm vụ tái cơ cấu còn nặng nề với nhiều khó khăn, thách thức, đòi hỏi các bộ, ngành, địa phương, tập đoàn kinh tế và tổng công ty nhà nước phải tập trung chỉ đạo thực hiện nhiều biện pháp tích cực mới để đạt mục tiêu đề ra.
- Từ 14.50': Đại diện các bộ ngành, tập đoàn, tổng công ty phát biểu ý kiến.
Tạo "sân chơi" bình đẳng, minh bạch
- Đại diện Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn nhà nước (SCIC) phát biểu về các nội dung: Tình hình hoạt động của SCIC, quá trình triển khai thoái vốn tại các doanh nghiệp,...
Đại diện SCIC kiến nghị về tạo lập môi trường để DNNN hoạt động kinh doanh, cạnh tranh bình đẳng với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác; cho phép DNNN được làm những việc mà pháp luật không cấm;
Đặc biệt, khi xem xét, đánh giá tính hiệu quả của DNNN, các cơ quan thanh tra, kiểm tra, kiểm toán cần đánh giá tổng thể các hoạt động của DNNN (có hoạt động hiệu quả, có rủi ro) để bảo đảm cho người đứng đầu DNNN tăng tính năng động, quyết đoán, nắm bắt kịp thời các cơ hội trong sản xuất kinh doanh.
Khi IPO lần đầu, cần bán lượng cổ phần đủ lớn để thu hút cổ đông chiến lược, qua đó có thể thay đổi cơ cấu quản trị của doanh nghiêp. Sau cổ phần hóa, doanh nghiệp cần nhanh chóng niêm yết, giao dịch cổ phiếu trên thị trường chứng khoán,...
Về công tác cán bộ tại DNNN, đại diện SCIC đề nghị cần có quy trình hiệu quả để bảo đảm lựa chọn được người đủ năng lực, phẩm chất,... để lãnh đạo, vận hành hiệu quả doanh nghiệp.
Cổ phần hóa chậm vì muốn làm ông chủ giả cho khỏe?
- Ông Trần Quang Nghị, Chủ tịch HĐQT Tập đoàn Dệt May, chia sẻ kinh nghiệm về cổ phần hóa ông Nghị nhấn mạnh sự quyết liệt chủ quan và trách nhiệm của người lãnh đạo doanh nghiệp trong tiến hành cổ phần hóa.
Theo ông, việc cổ phần hóa chậm là do tâm lý người đứng đầu DNNN muốn "làm ông chủ giả", sài vốn nhà nước,... khỏe hơn ông chủ thật bỏ tiền ra để kinh doanh", bởi chỉ cần bảo toàn vốn là được. Do vậy không cần phải đẩy nhanh cổ phần hóa để "chiến đấu" với thương trường...
Ông Nghị cho rằng khi tiến hành cổ phần hóa các tập đoàn, tổng công ty nhà nước, nếu cổ phần hóa từ công ty mẹ trước, công ty con sau tiến độ sẽ nhanh hơn... Tuy nhiên, khi bán phải xác định rõ các nhà đầu tư chiến lược, tâm huyết với ngành, phải đầu tư bằng cả khối óc và trái tim, không đầu tư lướt sóng,... có vậy doanh nghiệp sau cổ phần hóa mới phát triển bền vững và bảo vệ quyền lợi của người lao động.
Bên cạnh đó, để bảo đảm cao nhất lợi ích của nhà nước khi bán cổ phần, ông Nghị cũng ví von, khi bán một cái nhà, phải chống thấm, chống dột, chỉnh trang để cái nhà đẹp hơn và bán được với giá cao nhất. Tuy nhiên, thực tiễn lại có DN khi bán lại "làm cái nhà xấu đi" để bán giá thấp cho nhóm lợi ích... Do vậy cần có sự giám sát chặt chẽ, hợp lý để bảo đảm lợi ích cao nhất của Nhà nước khi bán cổ phần.
Mặt khác, cần tạo cơ chế chính sách mới để doanh nghiệp "bớt báo cáo", "chạy với tốc độ cao hơn nữa", trong quá trình cổ phần hóa...
- Đại diện Tập đoàn Điện lực Việt Nam báo cáo một số nội dung: Thoái vốn tại doanh nghiệp ngoài ngành; sắp xếp, tái cấu trúc Tập đoàn; tiến độ triển khai cổ phần hóa một số Tổng công ty phát điện;.... Đồng thời trình bày một số khó khăn, vướng mắc khi cổ phần hóa như: Do vướng mắc về quy định làm cho việc chọn tư vấn có năng lực gặp khó khăn; đề nghị sửa đổi một số quy định trong Nghị định 59 và Nghị định 116; đề nghị sớm ban hành Nghị định thay thế Nghị định 99,...
Sau phần phát biểu của đại diện EVN, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc nhấn mạnh, khi cổ phần EVN, các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực truyền tải điện thì Nhà nước nắm 100%. Trong lĩnh vực phát điện, nhà nước chỉ nắm một số nhà máy thủy điện lớn, có tính chất ại sự, liên quan đến an ninh, quốc phòng như Sơn La, Lai Châu,... còn lại cần đẩy mạnh cổ phần hóa.
- Đại diện thành phố Hà Nội phát biểu về tiến độ cổ phần hóa một số doanh nghiệp trực thuộc, đồng thời đề xuất 4 nội dung: Những doanh nghiệp nào nhà nước không cần nắm giữ thì khi cổ phần hóa nên bán toàn bộ 100% vốn; đề nghị sớm sửa đổi một số quy định hiện hành về cổ phần hóa, tiêu chí phân loại DNNN; khi cổ phần hóa cần có chế độ đãi ngộ phù hợp đối với người lao động muốn nghỉ hưu trước tuổi...
- Đại diện TPHCM phát biểu một số ý kiến liên quan đến công tác cổ phần hóa giai đoạn 2011-2015 của thành phố. Về sắp xếp DNNN giai đoạn 2016-2020, TPHCM sẽ cố gắng hoàn thành nhiệm vụ đặt ra, chỉ đạo các doanh nghiệp thoái hết vốn ngoài ngành, tập trung vào các ngành kinh doanh chính;... TPHCM đề xuất một số nội dung: Đề nghị sớm phê duyệt danh mục doanh nghiệp cổ phần hóa; đề nghị sớm có hướng dẫn về xác định giá trị lợi thế, xác định giá trị thương hiệu khi cổ phần hóa;...
- Đại diện tỉnh Đắk Lắk phát biểu một số nội dung về cổ phần hóa, sắp xếp lại các công ty lâm nghiệp, nông nghiệp, doanh nghiệp công ích,.. tại địa phương, đồng thời nêu một số khó khăn khi tiến hành cổ phần hóa như: Xác định tiêu chí cổ đông chiến lược; vấn đề đất đai khi tiến hành cổ phần hóa những doanh nghiệp có 2 chủ sở hữu là Tổng công ty và địa phương; chế độ đối với lao động là người dân tộc thiểu số khi sắp xếp doanh nghiệp; kinh phí giải quyết các vấn đề liên quan đến đo đạc, thống kê đất đai khi cổ phần hóa...
- Đại diện Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, NNPTNT, Công Thương... phát biểu về tiến độ cổ phần hóa, sắp xếp lại các doanh nghiệp trực thuộc; giải đáp một số nội dung thuộc lĩnh vực quản lý được nêu tại hội nghị, đồng thời kiến nghị một số nội dung về: Hoàn thiện đề án tái cơ cấu giai đoạn tới, phê duyệt danh mục doanh nghiệp cổ phần hóa, chế tài trong công tác cán bộ, quy định rõ thời hạn niêm yết công khai trên thị trường, quy định chế tài mạnh để các bộ, ngành, địa phương, doanh nghiệp chấp hành nghiêm quy định về báo cáo; giải pháp gỡ vướng trong cổ phần hóa lại các công ty thủy nông; tiến độ, giải pháp tiến hành cổ phần hóa các Tổng công ty lương thực; đề nghị những doanh nghiệp giữ vốn dưới 49% nên thoái hết... nhằm đẩy nhanh tiến độ cổ phần hóa trong thời gian tới.