WB: Kinh tế Việt Nam vẫn đang phục hồi mạnh mẽ

0:00 / 0:00
0:00
(BĐT) - Theo Báo cáo cập nhật kinh tế vĩ mô vừa được Ngân hàng Thế giới (WB) phát hành, nền kinh tế Việt Nam đã ghi nhận nhiều tín hiệu tích cực trong giai đoạn vừa qua.
Ảnh minh họa: Internet
Ảnh minh họa: Internet

Cụ thể, tăng trưởng GDP của Việt Nam trong quý III/2022 đạt 13,7% so cùng kỳ năm trước. Tốc độ tăng trưởng cao kỷ lục trên phần nào là nhờ hiệu ứng xuất phát điểm thấp do nền kinh tế bị suy giảm 6% trong quý III/2021 sau các đợt cách ly kéo dài nhằm kiềm chế đại dịch Covid-19.

Ngành dịch vụ, vốn bị ảnh hưởng nặng nề nhất trong năm trước, đạt mức tăng trưởng cao nhất (18,9% so cùng kỳ năm trước), đóng góp 8,5% cho tốc độ tăng trưởng GDP. Cụ thể, lĩnh vực lưu trú và ăn uống lần đầu tiên cao hơn mức trước đại dịch kể từ quý III/2022 nhờ nhu cầu trong nước phục hồi mạnh mẽ.

Chỉ số sản xuất công nghiệp (Tỷ lệ %, không điều chỉnh theo mùa vụ)

Chỉ số sản xuất công nghiệp

(Tỷ lệ %, không điều chỉnh theo mùa vụ)

Chỉ số sản xuất công nghiệp trong tháng 9/2022 cũng tăng 1,8% so tháng trước và tăng 13% so cùng kỳ năm trước. Theo WB, kết quả này có được nhờ hiệu ứng xuất phát điểm thấp vào quý III/2021.

Doanh số bán lẻ trong tháng 9/2022 tăng 2,95% so với tháng trước và tăng 36,1% so với cùng kỳ năm 2021. Trong đó, doanh số dịch vụ tiêu dùng tăng mạnh hơn so với doanh số bán lẻ hàng hóa (tăng lần lượt 6,5% và 1,95% so với tháng trước). WB cho biết, doanh số dịch vụ tăng nhờ doanh số bất động sản, các dịch vụ quản lý hành chính và hỗ trợ, y tế và giáo dục, giải trí...

Theo báo cáo của WB, tình hình thị trường lao động trong quý III/2022 tiếp tục cải thiện. Cụ thể, tỷ lệ tham gia lực lượng lao động tăng nhẹ từ 68,5% trong quý II lên 68,7% trong quý III; tuy nhiên, tỷ lệ này vẫn thấp hơn nhiều so với mức 71,3% ở thời điểm trước đại dịch Covid-19. Tỷ lệ thất nghiệp đã quay trở lại mức trước đại dịch (2,1%), trong khi tỷ lệ thiếu việc làm ở mức 1,9% - vẫn cao hơn so với mức 1,2% trước đại dịch.

Thị trường lao động (Tỷ lệ %)

Thị trường lao động

(Tỷ lệ %)

Báo cáo của WB cũng cho biết, tăng trưởng xuất nhập khẩu của Việt Nam đều chững lại trong tháng 9/2022 do sức cầu yếu đi ở những thị trường xuất khẩu chủ lực.

“Tăng trưởng xuất khẩu giảm đồng đều, do nhu cầu tại Mỹ và EU yếu đi kết hợp với tác động của chính sách Zero - Covid ở Trung Quốc cũng như hiệu ứng xuất phát điểm thấp”, WB đánh giá.

Kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng máy tính, điện thoại, hàng điện tử, và máy móc trong tháng 9 chỉ tăng 5,6% so với 20,8% trong tháng 8. Tăng trưởng xuất khẩu các mặt hàng dệt may và giày da cũng giảm nhẹ từ 80,4% xuống còn 57,3% cùng thời điểm. Tăng trưởng tổng kim ngạch nhập khẩu giảm từ 13,6% xuống 8,0%, do giảm nhập khẩu điện thoại, máy tính, hàng điện tử và máy móc, qua đó phản ánh các mặt hàng xuất khẩu công nghệ cao còn phụ thuộc nhiều vào những đầu vào nhập khẩu nêu trên.

Ngoài ra, tuy giá năng lượng đã hạ nhiệt, nhưng CPI đã tăng từ 2,9% trong tháng 8 lên 3,9% trong tháng 9 chủ yếu do tiền thuê nhà và chi phí giáo dục tăng cao. Lạm phát cơ bản cũng tăng, từ 3,15% trong tháng 8 lên 3,8% trong tháng 9.

Cân đối ngân sách tháng 9 lần đầu tiên bội chi ở mức 0,5 tỷ USD trong năm 2022, nhưng vẫn ghi nhận bội thu 10,5 tỷ USD trong 9 tháng đầu năm. Do thặng dư ngân sách, khối lượng trái phiếu chính phủ phát hành từ đầu năm đến nay chỉ đạt 28,7% kế hoạch năm, so với mức 67,9% năm 2021.

Mặc dù nền kinh tế vẫn đang phục hồi mạnh mẽ, nhưng theo WB, những bất định gia tăng liên quan đến kinh tế toàn cầu chững lại, lạm phát trong nước gia tăng, điều kiện huy động tài chính toàn cầu bị thắt chặt cho thấy Việt Nam cần tăng cường cảnh giác và linh hoạt về chính sách.

"Trong điều kiện nền kinh tế chưa phục hồi đầy đủ và tăng trưởng ở những thị trường xuất khẩu chủ lực dự kiến sẽ yếu đi, chính sách tài khóa chủ động nhằm hỗ trợ nền kinh tế trong thời gian tới cần bám sát kết quả kinh tế và phối hợp với chính sách tiền tệ", WB cho biết.

Đồng thời vì CPI và CPI cơ bản đang tiếp đến mức 4%, bằng mức lãi suất chính sách của cấp có thẩm quyền, cơ quan tiền tệ cần sẵn sàng cân nhắc thắt chặt hơn nữa chính sách tiền tệ để đảm bảo neo giữ lạm phát. Khi giai đoạn giãn hoãn thời gian trả nợ đã kết thúc và điều kiện huy động tài chính bị thắt chặt, khu vực tài chính phải đối mặt với rủi ro gia tăng, đồng thời đòi hỏi phải có hướng dẫn từ phía Ngân hàng Nhà nước để ngăn chặn những rủi ro đó bị hiện thực hóa ở cấp độ ngành, có thể gây ảnh hưởng đến nền kinh tế thực.

Tin cùng chuyên mục