![]() |
Trả lời chất vấn các đại biểu Quốc hội về công tác tài chính cho phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm mục tiêu tăng trưởng, nâng cao hiệu quả đầu tư, Bộ trưởng Bộ Tài chính Nguyễn Văn Thắng cho biết, theo thông lệ quốc tế, nếu một quốc gia đạt tốc độ tăng trưởng từ 10% trở lên thì tổng đầu tư toàn xã hội cần xấp xỉ 40% GDP. Đây là vấn đề cần quan tâm để đảm bảo vừa huy động đủ nguồn lực cho mục tiêu tăng trưởng kinh tế vừa nâng cao hiệu quả đầu tư.
Về huy động nguồn lực, Bộ trưởng Bộ Tài chính Nguyễn Văn Thắng cho biết, ngành tài chính sẽ tiếp tục thực hiện 5 nhóm giải pháp. Một là, phấn đấu dành 60% ngân sách hằng năm cho đầu tư phát triển. Hai là, có các giải pháp đột phá, đa dạng để kích hoạt và thu hút tối đa nguồn vốn từ doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp FDI, nguồn vốn ODA, vốn từ nhân dân với nguyên tắc vốn ngân sách chỉ là vốn mồi để kích hoạt các nguồn vốn khác.
![]() |
Giải pháp thứ ba là phát triển mạnh mẽ các kênh huy động vốn từ thị trường vốn như cổ phiếu, trái phiếu, các quỹ đầu tư, các quỹ tài chính. Để thực hiện giải pháp này, một trong những việc cần làm là phải nâng cấp thị trường chứng khoán trong năm 2025.
Giải pháp thứ tư là tích cực tháo gỡ các khó khăn để đưa các dự án tồn đọng trên địa bàn cả nước vào vận hành.
Giải pháp thứ năm là huy động nguồn vốn tham gia từ các tổ chức tín dụng, đặc biệt là từ hệ thống các ngân hàng thương mại.
Về hiệu quả đầu tư, Bộ trưởng Nguyễn Văn Thắng cho biết, chỉ số ICOR của Việt Nam hiện ở mức 6 – 7, cần phấn đấu giảm xuống mức 4 - 5 trong giai đoạn 2026-2030. Để nâng cao hiệu quả đầu tư, Bộ Tài chính sẽ tiếp tục triển khai các nhóm giải pháp. Một là, nhóm giải pháp về cải cách thể chế và quản lý đầu tư công để giảm thất thoát, tránh lãng phí trong quản lý vốn, đảm bảo các quy định của pháp luật đồng bộ, không chồng chéo. Hai là, thực hiện tái cơ cấu nền kinh tế và tối ưu hóa nguồn lực, ưu tiên đầu tư vào các lĩnh vực có giá trị gia tăng cao như công nghiệp chế biến, chế tạo, kinh tế xanh, kinh tế số, kinh tế tuần hoàn để tăng năng suất lao động, không đầu tư dàn trải và Nhà nước chỉ tập trung vào các công trình hạ tầng thiết yếu. Ba là, nâng cao năng lực công nghệ và đổi mới sáng tạo, tăng cường nghiên cứu phát triển, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao. Cuối cùng là, cải cách hành chính và môi trường đầu tư kinh doanh, cắt giảm được thủ tục hành chính, chống tham nhũng, lãng phí.
![]() |
Hỗ trợ thúc đẩy phát triển kinh tế tư nhân thành động lực quan trọng của nền kinh tế, hướng tới mục tiêu đạt 2 triệu doanh nghiệp vào năm 2030 cũng là vấn đề được nhiều đại biểu quốc hội quan tâm và chất vấn.
Về vấn đề này, Bộ trưởng Bộ Tài chính Nguyễn Văn Thắng cho biết, đạt 2 triệu doanh nghiệp vào năm 2030 theo yêu cầu tại Nghị quyết 68 của Bộ Chính trị là mục tiêu có ý nghĩa rất quan trọng đối với phát triển kinh tế - xã hội, thể hiện khát vọng phát triển mạnh mẽ của kinh tế. Tuy nhiên, đây cũng là thách thức rất lớn trong bối cảnh sức cầu suy giảm, môi trường kinh doanh trong nước còn nhiều khó khăn, năng lực cạnh tranh của nhiều doanh nghiệp còn yếu. Bên cạnh đó, môi trường bên ngoài cũng còn nhiều trở ngại. Để vượt qua các thách thức này, đòi hỏi quyết tâm cao, nỗ lực rất lớn và hành động quyết liệt.
Để đạt được mục tiêu trên, Bộ Tài chính tiếp tục triển khai 3 nhóm giải pháp. Nhóm giải pháp thứ nhất là kiến tạo môi trường kinh doanh thuận lợi, minh bạch và hiệu quả, tập trung tháo gỡ rào cản gia nhập và hoạt động trên thị trường, cắt giảm thực chất các thủ tục hành chính, giảm chi phí tuân thủ, cải cách điều kiện kinh doanh.
![]() |
Nhóm giải pháp thứ hai là rà soát, tháo gỡ các vướng mắc trong đầu tư, thủ tục về đất đai, xây dựng, quy hoạch để tạo hành lang thông thoáng, ổn định, tạo điều kiện và động lực thu hút doanh nghiệp tham gia. Cùng với xu thế hiện nay, chúng ta phải đẩy mạnh chuyển đổi số trong quản lý để tạo điều kiện thuận lợi nhất cùng với việc cải cách thủ tục hành chính cho doanh nghiệp. Bên cạnh đó, cần thúc đẩy mạnh mẽ quá trình chuyển đổi hộ kinh doanh sang doanh nghiệp. Hiện nay, có hơn 5 triệu hộ kinh doanh đang hoạt động, đây là lực lượng có tiềm năng lớn nhất để hiện thực hóa mục tiêu 2 triệu doanh nghiệp.
Bộ trưởng Bộ Tài chính cho biết, ngành tài chính đang rà soát, hoàn thiện khung pháp lý để thu hẹp chênh lệch giữa hộ kinh doanh và doanh nghiệp về quản trị, về tài chính, kế toán. Bên cạnh đó, khẩn trương hoàn thiện quy định pháp lý về nâng cấp hạ tầng kỹ thuật để triển khai thực hiện chính sách bãi bỏ thuế khoán đối với hộ kinh doanh từ ngày 1/1/2026. Đây được coi là giải pháp căn cơ để minh bạch hóa hoạt động của các hộ kinh doanh và thúc đẩy hộ kinh doanh chuyển đổi sang mô hình doanh nghiệp.
Đồng thời, triển khai chính sách hỗ trợ hộ kinh doanh chuyển đổi thành doanh nghiệp như miễn thuế thu nhập doanh nghiệp 3 năm đầu thành lập, bãi bỏ lệ phí môn bài, cung cấp miễn phí nền tảng số, phần mềm kế toán dùng chung. Như vậy, khi chuyển đổi thành doanh nghiệp thì các hộ kinh doanh sẽ được hưởng nhiều chính sách ưu đãi hơn so với hoạt động theo mô hình hộ kinh doanh.
Nhóm giải pháp thứ ba là nâng cao năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp, ưu tiên hỗ trợ tiếp cận về đất đai, về vốn, về thị trường, về công nghệ, về chuyển đổi số và phát triển nguồn lực. Tập trung khơi thông điểm nghẽn, hỗ trợ doanh nghiệp tăng khả năng chống chịu, thích ứng để từ đó giảm số doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường.
![]() |
Các chính sách miễn và giảm thuế, phí, tiền thuê đất cho người dân và doanh nghiệp từ năm 2020 đến nay nhận được đánh giá tích cực. Trong bối cảnh dự báo còn nhiều khó khăn hiện nay, một số đại biểu quốc hội đặt câu hỏi về các giải pháp hỗ trợ về thuế, phí trong thời gian tới.
Giải đáp vấn đề này, Bộ trưởng Bộ Tài chính cho biết, trong thời gian vừa qua, Bộ Tài chính rất cố gắng để kịp thời tham mưu nhiều chính sách miễn giảm, gia hạn thuế, phí và hỗ trợ người dân, doanh nghiệp trong giai đoạn đất nước gặp khó khăn trong giai đoạn dịch bệnh Covid-19 và hậu Covid-19. Những chính sách này đã góp phần hỗ trợ doanh nghiệp doanh nghiệp vượt qua khó khăn, khôi phục sản xuất, kinh doanh, đóng góp tích cực cho tăng trưởng kinh tế, giúp kinh tế Việt Nam vượt qua những khó khăn, thách thức trong thời gian vừa qua.
Các chính sách miễn và giảm thuế, phí, tiền thuê đất cho người dân và doanh nghiệp từ năm 2020 đến nay nhận được đánh giá tích cực.
Tại kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV, Chính phủ tiếp tục trình Quốc hội giảm 2% thuế giá trị gia tăng cho 6 tháng cuối năm 2025 và cả năm 2026, tiếp tục thực hiện chính sách miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp cho đến năm 2030. Theo tính toán của Bộ Tài chính, tổng số tiền hỗ trợ thuế, phí dự kiến năm 2025 là khoảng 204.000 tỷ đồng. Trong 5 tháng đầu năm, số tiền hỗ trợ là khoảng 88.000 tỷ đồng. Bộ trưởng Bộ Tài chính Nguyễn Văn Thắng tin tưởng các chính sách hỗ trợ này sẽ tiếp tục phát huy hiệu quả, hỗ trợ sản xuất kinh doanh và thúc đẩy thị trường trong nước thực hiện được mục tiêu tăng trưởng năm 2025.
Bên cạnh đó, Bộ Tài chính đang khẩn trương nghiên cứu và tham mưu để trình ban hành Nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về điều chỉnh mức giảm trừ gia cảnh khi tính thuế thu nhập cá nhân và trình Chính phủ điều chỉnh Nghị định về giảm tiền thuê đất năm 2025. Đồng thời, sẽ tiếp tục tập trung theo dõi sát tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, đời sống của người dân để kịp thời tham mưu và đề xuất chính sách hỗ trợ một cách kịp thời trong trường hợp có những biến động bất thường.
![]() |
Chính sách thuế với hộ kinh doanh cũng là nội dung được nhiều đại biểu quốc hội quan tâm. Về nội dung này, Bộ trưởng Bộ Tài chính Nguyễn Văn Thắng cho biết, hệ thống thuế của Việt Nam hiện được các cơ quan quốc tế đánh giá là cơ bản tiếp cận các thông lệ quốc tế. Tuy nhiên, một số loại thuế đang được thu thủ công là rào cản rất lớn về tính minh bạch trong quản lý thuế. Nghị quyết 68 của Bộ Chính trị và Nghị quyết 198 của Quốc hội được ban hành gần đây đặt ra yêu cầu bỏ hình thức thuế khoán từ năm 2026 cho thấy rõ chủ trương minh bạch hóa công tác quản lý thuế.
Cơ chế thuế khoán tuy phù hợp trong một giai đoạn nhất định nhưng đến nay đã bộc lộ nhiều bất cập, thiếu minh bạch, dễ lạm dụng và gây bất bình đẳng giữa các loại hình kinh doanh. Đồng thời, cơ chế thuế khoán không tạo được động lực cho hộ kinh doanh để phát triển lớn lên thành doanh nghiệp nhỏ và vừa.

Bỏ thuế khoán là bước đi căn cơ, tạo minh bạch và bình đẳng
Việc bãi bỏ thuế khoán từ năm 2026 là chủ trương rất đúng của Đảng và Nhà nước, là bước đi căn cơ và cần thiết để minh bạch hóa hoạt động của các hộ kinh doanh, tạo sự bình đẳng về chế độ thuế giữa hộ kinh doanh và doanh nghiệp, thúc đẩy hộ kinh doanh chuyển đổi sang mô hình doanh nghiệp, mở rộng khu vực kinh tế chính thức. Việc triển khai chính sách này trong giai đoạn đầu sẽ có những tác động đến hàng triệu hộ kinh doanh.
![]() |
Để đảm bảo triển khai thuận lợi, Bộ trưởng Nguyễn Văn Thắng cho biết, ngành thuế đang chuẩn bị đồng bộ về pháp lý và công nghệ, đảm bảo thuận lợi và giảm gánh nặng về thủ tục, chi phí cho các hộ kinh doanh. Theo đó, thực hiện rà soát và hoàn thiện chính sách thuế, đề xuất sửa Luật Quản lý thuế, Luật Thuế thu nhập cá nhân hướng đến mô hình quản lý thuế mới, kê khai đơn giản, dễ thực hiện, minh bạch hóa sổ sách, hóa đơn chứng từ để đảm bảo hộ kinh doanh không bị áp lực khi chuyển đổi sang mô hình doanh nghiệp. Bên cạnh đó, tăng cường chuyển đổi số trong quản lý thuế như áp dụng hóa đơn điện tử khởi tạo từ máy tính tiền để giúp thu đúng, thu đủ, giảm thời gian và chi phí cho các hộ kinh doanh.

Minh bạch hóa đơn chứng từ, tạo cơ hội phát triển mới
Hơn nữa, sẽ cung cấp miễn phí hệ thống khai nộp thuế điện tử, phần mềm hóa đơn điện tử, phần mềm kế toán, đặc biệt là hỗ trợ cho các hộ kinh doanh còn khó khăn trong giai đoạn đầu và đẩy mạnh chuyển đổi số nội bộ, nâng cao chất lượng dịch vụ công và năng lực quản lý thuế, tăng cường kết nối dữ liệu. Mặt khác, tiếp tục đẩy mạnh truyền thông, đào tạo và tư vấn như tăng cường tuyên truyền, hướng dẫn các hộ kinh doanh hiểu rõ lợi ích, cách thực hiện hóa đơn điện tử và kê khai thuế, tổ chức đào tạo, tư vấn pháp lý, kế toán, thuế cho các hộ kinh doanh.
![]() |
Về thu hút vốn FDI, Bộ trưởng Bộ Tài chính Nguyễn Văn Thắng cho biết, việc thu hút FDI luôn gắn với chủ trương về chuyển giao công nghệ thực chất, công nghệ sáng tạo, ưu đãi công nghệ cao. Để tạo sức hút cho các dự án FDI trong lĩnh vực công nghệ, Nghị quyết 50/NQ-TW của Bộ Chính trị về định hướng hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao chất lượng, hiệu quả hợp tác đầu tư nước ngoài đến năm 2030 đã nêu rõ: "Ưu tiên các dự án có công nghệ tiên tiến, công nghệ mới, công nghệ cao, công nghệ sạch, quản trị hiện đại, có giá trị gia tăng cao, có tác động lan toả, kết nối chuỗi giá trị sản xuất toàn cầu". Nghị quyết 57-NQ/TW về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia đặt yêu cầu nghiên cứu, xây dựng các khu công nghiệp chuyên biệt, tập trung, có quy mô lớn, hiện đại, có khả năng thu hút các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân hoạt động trong lĩnh vực trí tuệ nhân tạo (AI).
Việc thu hút FDI luôn gắn với chủ trương về chuyển giao công nghệ thực chất, công nghệ sáng tạo, ưu đãi công nghệ cao.
Theo Bộ trưởng Nguyễn Văn Thắng, xu hướng đầu tư toàn cầu hiện tập trung vào lĩnh vực công nghệ cao, công nghệ lõi, công nghệ bán dẫn, AI, năng lượng tái tạo. Với lợi thế tăng trưởng tích cực, môi trường đầu tư cải thiện mạnh mẽ và lợi thế nhân công, Châu Á và khu vực ASEAN đã trở thành địa điểm ưu tiên hàng đầu của một số tập đoàn đa quốc gia. Trong đó, Việt Nam là điểm đến hấp dẫn với dòng vốn FDI nhờ chiến lược thu hút vốn phù hợp, môi trường chính trị ổn định, vị thế cao, môi trường đầu tư. Do đó, nguồn vốn FDI vào Việt Nam vẫn duy trì tích cực dù nhiều tác động bất lợi từ bên ngoài.
“Tính đến ngày 31/5/2025, cả nước có gần 44.000 dự án FDI, tổng vốn đăng ký đạt 517 tỷ USD, vốn thực hiện lũy kế đạt 331,5 tỷ USD (tương đương 64,6% vốn đăng ký). Khu vực FDI đóng góp khoảng 20,5 tỷ USD vào ngân sách nhà nước của năm 2024, tăng 12% so với năm 2023, chiếm 24,7% tổng thu ngân sách. Đây là con số đóng góp rất đáng kể”, Bộ trưởng cho biết.
Để đạt được mục tiêu xây dựng Việt Nam trở thành quốc gia phát triển vào năm 2045, theo Bộ trưởng Nguyễn Văn Thắng, cần chuyển dịch trọng tâm thu hút FDI có chọn lọc. Trong đó, ưu tiên các dự án công nghệ cao, đổi mới sáng tạo, giá trị gia tăng cao, thân thiện với môi trường, thay vì chạy theo số lượng bằng mọi giá. Các đối tác chiến lược như G7, Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan (Trung Quốc), Mỹ, EU tiếp tục là trọng tâm xúc tiến thu hút đầu tư, gắn với các lĩnh vực mà Việt Nam đang khuyến khích phát triển.

Thu hút vốn FDI: Chuyển trọng tâm ưu đãi thuế sang nâng cao chất lượng môi trường đầu tư
Chiến lược cạnh tranh của Việt Nam là chuyển trọng tâm ưu đãi thuế sang nâng cao chất lượng môi trường đầu tư và dịch vụ hỗ trợ; chú trọng phát triển hạ tầng khu công nghiệp, khu kinh tế đồng bộ; bảo đảm nguồn điện, đảm bảo quỹ đất sạch, nhân lực chất lượng cao. Đồng thời, cải cách mạnh thủ tục hành chính sau cấp phép, rút ngắn thời gian triển khai dự án cho các doanh nghiệp FDI.