Chỉ có khoảng 5.000 doanh nghiệp Việt Nam tham gia vào hệ sinh thái của khu vực FDI. Ảnh: Tường Lâm |
Xu hướng dịch chuyển ngày càng rõ
Từ cuối năm 2023 đến nay, nhiều tập đoàn công nghệ lớn quan tâm và đang chuyển dịch chuỗi cung ứng sang Việt Nam. Trong 5 tháng đầu năm 2024, với thành tích đứng thứ 2 ở khu vực ASEAN về thu hút đầu tư, Việt Nam đã khẳng định vị thế là địa chỉ mới trong chiến lược đa dạng hóa chuỗi sản xuất, chuỗi cung ứng của các quốc gia, các tập đoàn, DN hàng đầu thế giới. Lũy kế đến tháng 5/2024, Việt Nam thu hút được 40.285 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) còn hiệu lực, với tổng vốn đăng ký đạt 481,33 tỷ USD, từ 143 quốc gia và vùng lãnh thổ.
Nền kinh tế nước ta 6 tháng đầu năm 2024 ghi nhận sự phục hồi mạnh mẽ của hoạt động xuất khẩu với kim ngạch ước đạt gần 189 tỷ USD, tăng 13,8% so với cùng kỳ năm 2023. Đáng chú ý, ở một số mặt hàng trọng điểm ghi nhận kim ngạch xuất khẩu khởi sắc không chỉ xuất phát từ nhu cầu của thị trường mà có sự dịch chuyển nhất định đơn hàng từ các quốc gia khác sang Việt Nam.
Từ số liệu thu hút dòng vốn FDI, ông Nguyễn Tú Anh, Vụ trưởng, Giám đốc Trung tâm Thông tin, phân tích và dự báo kinh tế của Ban Kinh tế Trung ương cho rằng, trung tâm của các chuỗi cung ứng toàn cầu (hub) đã bắt đầu dịch chuyển nhanh. Bên cạnh những dòng vốn FDI truyền thống như Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore… thì dòng vốn từ Trung Quốc, Hồng Kông cũng có sự gia tăng mạnh. Thực tế, đang có sự chuyển dịch chuỗi cung ứng từ Trung Quốc sang Việt Nam. Nếu như năm 2022, Việt Nam thu hút được 2,3 tỷ USD vốn FDI từ Trung Quốc, thì năm 2023 đạt tới 3,5 tỷ USD.
Còn nhiều rào cản
Xu hướng dịch chuyển chuỗi cung ứng, chuỗi sản xuất ngày càng rõ rệt, nhưng để DN Việt Nam nắm bắt được cơ hội này thì vẫn còn nhiều việc phải làm. Theo Bộ Công Thương, Việt Nam có khoảng 2.000 DN sản xuất phụ tùng, linh kiện, trong đó chỉ có khoảng 300 DN tham gia chuỗi cung ứng.
Ông Hoàng Quang Phòng, Phó Chủ tịch Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) cho biết, trong khoảng 800.000 DN tư nhân trong nước đang hoạt động, DN lớn chiếm chưa đến 2%, còn lại là DN nhỏ và siêu nhỏ. Trở ngại chính của các DN nhỏ và vừa (DNNVV) là thiếu kỹ năng quản lý, ít đổi mới công nghệ, khả năng tiếp cận tài chính hạn chế. Trong khi đó, hiệu ứng lan tỏa về công nghệ và năng suất lao động của các DN FDI với các DN trong nước còn rất hạn chế. Hiện đã có những DN ngành ô tô, xe máy và điện tử trong nước hội nhập thành công, tuy nhiên con số còn rất khiêm tốn.
Theo ông Lê Duy Bình, Giám đốc điều hành Economica Việt Nam, tỷ lệ DN trong nước tham gia vào hệ sinh thái của khu vực FDI còn thấp, chỉ có khoảng 5.000 DN, trong đó vỏn vẹn 500 DN tham gia cấp I.
Nhiều ý kiến cho rằng, sở dĩ DN Việt chưa tiếp cận được chuỗi cung ứng có vốn FDI là do trình độ sản xuất, chất lượng lao động, trình độ quản trị, tiêu chuẩn an toàn, bảo vệ môi trường… chưa đáp ứng được yêu cầu. Bên cạnh đó, nhà cung ứng nội địa nằm trong khu công nghiệp đạt chuẩn do nước ngoài đầu tư về xử lý nước thải, sử dụng năng lượng tái tạo, kinh tế tuần hoàn… thì sẽ dễ dàng đáp ứng yêu cầu của nhà đầu tư FDI, trong khi đa số DN Việt vẫn hoạt động ngoài các khu công nghiệp như vậy.
Ngoài ra, tỷ trọng đổi mới công nghệ của DN nội địa hiện còn thấp. Giá trị tăng thêm trong các ngành công nghiệp, nhất là công nghiệp chế biến, chế tạo đòi hỏi trình độ cao, tham gia sâu vào chuỗi cung ứng còn thấp. Ví dụ, những ngành sản xuất công nghệ cao, thiết bị thông minh chỉ tham gia được khoảng 10%, đầu vào chủ yếu phải nhập khẩu từ các nước Đông Bắc Á, Trung Quốc phục vụ cho lắp ráp, chế tạo và xuất khẩu.
Để kết nối được hệ sinh thái của DN FDI, theo ông Nguyễn Tú Anh, cần có một hệ sinh thái hỗ trợ từ phía Nhà nước. Trong đó, cần đổi mới cách tiếp cận về cải cách thể chế và chính sách hỗ trợ đối với DN…
Theo ông Lê Duy Bình, để tham gia sâu hơn vào chuỗi cung ứng toàn cầu, phụ thuộc nhiều vào nỗ lực tự thân của DN. Tuy nhiên, vẫn còn một số điểm nghẽn lớn về thể chế và chính sách hỗ trợ DN Việt. “Chỉ khi môi trường thể chế và môi trường kinh doanh thuận lợi, an toàn, DN mới yên tâm, mạnh dạn đầu tư về công nghệ, đổi mới sáng tạo, nghiên cứu và phát triển để tiếp cận chuỗi cung ứng của các tập đoàn lớn đang hoạt động tại hay ngoài Việt Nam”, ông Bình nói.
Bên cạnh việc tạo thuận lợi, đột phá, cần triển khai mạnh mẽ các chính sách nhằm tiết giảm chi phí sản xuất, kinh doanh cho DN như đơn giản hóa thủ tục hành chính, rút ngắn thời gian nhập khẩu công nghệ, máy móc thiết bị, kiểm tra chuyên ngành, thủ tục hải quan, xuất nhập khẩu, các thủ tục hành chính có liên quan…