HSBC: Việt Nam đứng đầu ASEAN về đầu tư cơ sở hạ tầng

0:00 / 0:00
0:00
(BĐT) - Theo Báo cáo "Vietnam at a glance - Quay về sách lược cũ" vừa được HSBC công bố, Việt Nam có niềm tin vững chắc vào việc cơ sở hạ tầng chất lượng sẽ hỗ trợ tăng trưởng bền vững. Sau hai năm gián đoạn do đại dịch, vấn đề về cơ sở hạ tầng cuối cùng đã trở lại, thu hút sự quan tâm của các nhà hoạch định chính sách.
Ảnh minh họa
Ảnh minh họa

Báo cáo của HSBC nhận định, mặc dù đã có những cải thiện nhất định, Việt Nam vẫn cần đạt được tiến triển hơn nữa trong chất lượng cơ sở hạ tầng. Theo Báo cáo Năng lực Cạnh tranh Toàn cầu năm 2019, Việt Nam xếp thứ 77 trong tổng số 141 quốc gia về cơ sở hạ tầng tổng thể, với thứ hạng thấp trên hầu hết các lĩnh vực giao thông, đặc biệt là về chất lượng vận tải đường bộ và hàng không. Trong khi Việt Nam là quốc gia đứng đầu khu vực về thu hút FDI, cơ sở hạ tầng lạc hậu và quá tải liên tục được coi là trở ngại đối với năng lực sản xuất trong tương lai.

Chẳng hạn, trong cuộc khảo sát mới nhất của Phòng Thương mại châu Âu, các lãnh đạo doanh nghiệp đã xác định khó khăn về hành chính và phát triển cơ sở hạ tầng là 2 lĩnh vực chính cần cải thiện trong tương lai. Phần lớn vốn FDI chảy vào lĩnh vực sản xuất, điều này gây trở ngại cho sản xuất và xuất khẩu hàng hóa công nghiệp.

Theo dữ liệu của Ngân hàng Thế giới, chi phí thương mại phi thuế quan của Việt Nam đã cao hơn các nước ASEAN, với chi phí do tắc nghẽn vận tải lên tới 21% GDP trong năm 2016, vượt xa mức trung bình toàn cầu là 12%. Do đó, việc nâng cấp và hiện đại hóa cơ sở hạ tầng hiện có sẽ tạo điều kiện cho Việt Nam giảm bớt các rào cản đối với thương mại và tăng cường khả năng thu hút FDI, từ đó góp phần hỗ trợ tăng trưởng dài hạn.

Ngoài việc nâng cấp cơ sở hạ tầng hiện có, Việt Nam cũng đang cần thu hút thêm đầu tư vào cơ sở hạ tầng mới để duy trì tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ và thích ứng với tốc độ đô thị hóa đang gia tăng.

Dựa trên ước tính của Trung tâm Cơ sở hạ tầng Toàn cầu (Global Infrastructure Hub), trung bình Việt Nam cần 25 tỷ USD trong 20 năm tới, cao hơn gần 5 tỷ USD so với ước tính mỗi năm trước đó. Mặc dù lĩnh vực năng lượng vẫn chiếm tỷ lệ lớn nhất (44%), vận tải đường bộ đã tăng lên đáng kể (22%), tiếp theo đó là viễn thông (16%).

Cơ sở hạ tầng “truyền thống” vẫn là cốt lõi trong các dự án cơ sở hạ tầng trong những năm gần đây. Cụ thể, việc nâng cấp và mở rộng giao thông đường bộ được chú trọng hàng đầu.

Các chuyên gia của HSBC nhận định, với tầm quan trọng của cơ sở hạ tầng giao thông đường bộ, không khó hiểu tại sao Việt Nam đang đẩy mạnh tiến độ mũi nhọn của tuyến đường cao tốc trọng điểm Bắc - Nam.

Đường bộ là phương tiện vận tải đóng vai trò chủ đạo, chiếm 3/4 lượng vận chuyển hàng hóa và hơn 90% lượng chuyên chở hành khách. Việc Việt Nam tiếp tục phụ thuộc vào đường bộ cũng nhấn mạnh nhu cầu đa dạng hóa các luồng giao thông thông qua phát triển các hình thức vận tải khác, chẳng hạn như hàng không và đường sắt, hiện còn hạn chế về khả năng cung cấp và tiếp cận.

“Các nhà chức trách đã nhận ra vấn đề này và thúc đẩy các dự án như sân bay quốc tế Long Thành, đường sắt cao tốc Bắc - Nam và các tuyến tàu điện ngầm mới của TP. Hồ Chí Minh để tạo điều kiện thuận lợi cho việc vận chuyển hành khách và hàng hóa”, Báo cáo HSBC nhận định.

Mặc dù vậy, HSBC cho rằng, có nhiều dự án rơi vào tình trạng đình trệ kéo dài và đội vốn. Phần lớn trong số 11 dự án thành phần thuộc đường cao tốc Bắc - Nam giai đoạn 2017 - 2200 đã bị chậm tiến độ hoàn thành. Các vấn đề tương tự cũng phát sinh ở tuyến tàu điện ngầm thứ hai của Hà Nội, với thời gian hoàn thành ban đầu dự kiến là đầu năm 2018 sau đó đã được đẩy đến cuối năm 2022.

Ảnh minh họa: Internet

Ảnh minh họa: Internet

Với tham vọng của Việt Nam về cơ sở hạ tầng, một câu hỏi quan trọng khác đặt ra là nguồn vốn ở đâu?

Theo số liệu của Ngân hàng Thế giới công bố tháng 5/2020, khoảng 90% chi tiêu cho cơ sở hạ tầng của Việt Nam đến từ các nguồn công, với nguồn tài chính ưu đãi chiếm gần 50% tổng ngân sách cơ sở hạ tầng từ năm 2010 đến năm 2015 .

Theo HSBC, chi tiêu cho cơ sở hạ tầng của Việt Nam đứng đầu ASEAN, luôn chiếm hơn 6% trong tổng GDP hàng năm. Điều đó cho thấy, Việt Nam đã và đang tích cực tìm kiếm các nguồn thay thế sau khi “tốt nghiệp” chương trình vay ưu đãi vào cuối năm 2016.

“Do đó, mô hình đối tác công - tư (PPP) đã nổi lên như một giải pháp bền vững để hỗ trợ nhu cầu ngày càng tăng của cơ sở hạ tầng mà không gây thêm gánh nặng về tài khóa và nợ. Tuy nhiên, quy mô của những dự án công tư này vẫn còn hạn chế và chủ yếu tập trung trong lĩnh vực năng lượng”, HSBC nhận định.

Một điểm tích cực là Việt Nam đã đạt được tiến bộ trong việc đơn giản hóa khung pháp lý để giải quyết các vấn đề còn tồn tại. Luật Đầu tư theo phương thức PPP được Quốc hội thông qua vào giữa năm 2020, có hiệu lực từ ngày 1/1/2021. Lần đầu tiên, Luật PPP cho phép Nhà nước cam kết các cơ chế chia sẻ doanh thu, nhiều khả năng sẽ thúc đẩy các dự án PPP. Tuy nhiên, điều này là chưa đủ để thu hút các nhà đầu tư tư nhân vào lĩnh vực hạ tầng.

“Việt Nam cần thêm nhiều cải cách hơn nữa để cải thiện môi trường đầu tư nhằm thu hút sự tham gia của khối tư nhân vào các kế hoạch cơ sở hạ tầng dài hạn, thúc đẩy khả năng cạnh tranh của quốc gia”, HSBC khuyến nghị.

Tin cùng chuyên mục