Miền đá nở hoa

0:00 / 0:00
0:00
(BĐT) - Nếu đã một lần đến với Hà Giang, bạn sẽ thực sự hiểu được rằng, tại sao miền núi đá này lại làm say mê tâm hồn ta đến vậy…
Cao nguyên đá Đồng Văn trầm mặc, huyền bí mà yên bình. Ảnh: Phan Dũng
Cao nguyên đá Đồng Văn trầm mặc, huyền bí mà yên bình. Ảnh: Phan Dũng

Tình yêu nơi địa đầu Tổ quốc

Đoàn chúng tôi đặt chân đến Hà Giang vào những ngày đầu tháng 11. Cái lạnh chớm đông phủ những vầng mây bạc khiến cái vẻ trầm mặc, tĩnh lặng của miền biên cương nơi địa đầu Tổ quốc đẹp như một bức tranh. Men theo những cung đường vắt ngang lưng núi, chúng tôi thỏa thích ngắm nghía bức tranh thiên nhiên đa sắc, đa tình cùng những nét đẹp văn hóa vùng cao độc đáo. Là một tỉnh miền núi phía Đông Bắc của Việt Nam, Hà Giang có vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng, vốn được coi là phên giậu của quốc gia, có vai trò quyết định đối với môi trường sinh thái của cả vùng Bắc Bộ. Hà Giang còn là nơi giao thoa giữa các vùng văn hóa, đồng thời là điểm trung chuyển giữa cung đường du lịch Đông - Tây Bắc.

Thiên nhiên ban tặng cho nơi đây những dãy núi hùng vĩ, sừng sững vươn lên giữa trời xanh, những thung lũng sâu thăm thẳm, những con đường đèo quanh co uốn lượn đầy mê hoặc. Nằm trên độ cao hơn 1.000m so với mực nước biển, cao nguyên đá Đồng Văn là một trong những kỳ quan thiên nhiên độc đáo của Việt Nam, được UNESCO công nhận là Công viên Địa chất Toàn cầu. Đặt chân đến đây mới thấy, không chỉ cảnh quan thiên nhiên đầy sức hút, mà những câu chuyện, những giá trị lịch sử của hàng triệu năm hình thành địa chất nơi này cũng hấp dẫn vô tận… Mỗi mùa trong năm, cao nguyên đá lại khoác lên mình một vẻ đẹp riêng. Mùa xuân, hoa tam giác mạch nở rộ. Mùa hè, đồng lúa xanh ngát trải dài trên các thửa ruộng bậc thang. Mùa thu, cả không gian được nhuộm vàng bởi nắng và sắc vàng lúa chín. Mùa đông, cao nguyên đá trở nên tĩnh lặng, trầm mặc dưới lớp sương mù dày đặc, huyền bí mà yên bình.

Đến thăm Nghĩa trang Vị Xuyên - một địa danh lịch sử hào hùng, ghi dấu tinh thần quả cảm, kiên cường của hàng vạn người con đất Việt trong cuộc chiến bảo vệ biên giới phía Bắc, niềm tự hào về vùng đất Hà Giang hoang sơ và hùng vĩ cứ lớn dần. Đoàn chúng tôi dừng lại khá lâu nơi Cột cờ Lũng Cú. Tọa lạc trên đỉnh núi Rồng, xã Lũng Cú, huyện Đồng Văn với độ cao gần 1.500m, Cột cờ Quốc gia Lũng Cú là biểu tượng thiêng liêng về chủ quyền đất nước ở địa đầu cực Bắc của Tổ quốc. Hướng mắt lên Quốc kỳ, hòa nhịp cùng tiếng gió miền sơn cước, chúng tôi sửa soạn làm lễ chào cờ. Thấy Đoàn chúng tôi xếp hàng trang nghiêm, các vị khách quốc tế không ai bảo ai cũng xếp thành hàng, hướng tầm mắt lên Quốc kỳ Việt Nam, hòa tâm hồn vào tiếng nhạc. Lời hát: “Đoàn quân Việt Nam đi…, nước non Việt Nam ta vững bền!” vang lên bỗng kết nối mọi người con đất Việt. Những du khách quốc tế nhìn chúng tôi, rồi cũng đặt bàn tay lên trái tim mình, dù không thuộc lời nhưng dường như vẫn cảm nhận được hào khí Việt Nam qua lời hát. Khoảnh khắc thiêng liêng ấy đẹp lạ lùng. Chúng tôi ai cũng thấy được tiếp thêm niềm tự hào dân tộc và tình yêu Tổ quốc, tự hứa phải sống cho chính đáng để góp sức gìn giữ, xây dựng quê hương.

Được tạo hóa ban tặng “kỳ sơn tú thủy”, Hà Giang được biết đến là nơi sinh sống gắn bó lâu đời của 19 dân tộc anh em, trong đó đồng bào dân tộc thiểu số chiếm tỷ lệ gần 90%, mang đến cho mảnh đất sự phong phú và đặc sắc về văn hóa, tín ngưỡng, phong tục tập quán. Nhiều ưu thế, nhưng Hà Giang cũng có không ít khó khăn bởi địa bàn biên giới rộng, địa hình hiểm trở, chia cắt, khí hậu khắc nghiệt, cách xa các trung tâm kinh tế lớn của đất nước, kinh tế nông nghiệp là chủ đạo, năng suất lao động thấp... Trung tâm tỉnh là TP. Hà Giang cách thủ đô Hà Nội khoảng 320 km, trước đây, thời gian di chuyển mất đến 6 giờ đồng hồ, lâu nhất trong các tỉnh Đông Bắc. Kết nối giao thông là một vấn đề với sự phát triển của tỉnh, nhiều chỉ tiêu phát triển của Hà Giang thấp hơn so với bình quân các tỉnh trong vùng Trung du và miền núi phía Bắc.

Chính bởi vị trí xa xôi, địa hình hiểm trở, chia cắt, cuộc sống của người dân miền biên cương không mấy dễ dàng. Có đặt chân đến Hà Giang, mới cảm nhận hết được những khó khăn, thiếu thốn của đồng bào nơi đây. Miền núi đá phía Bắc, Đông Bắc (Quản Bạ, Yên Minh, Đồng Văn, Mèo Vạc), núi đất phía Tây (Hoàng Su Phì, Xín Mần) và phía Đông (Bắc Mê) tạo nên sự phong phú về địa chất, địa mạo, đa dạng về địa hình, cảnh sắc, nhưng lại lấy đi của Hà Giang tư liệu sản xuất. Đồng bào nơi đây chủ yếu áp dụng phương thức canh tác ruộng bậc thang với năng suất thấp. Việc giao thương hàng hóa còn manh mún, nhỏ lẻ, trong phạm vi không gian hẹp của bản, xã, khiến cuộc sống nhìn chung thiếu thốn nhiều bề…

Khó khăn nhưng không đơn độc!

Với chủ trương “giao thông đi trước mở đường”, “đường mở đến đâu, dân giàu đến đó”, những năm qua, Đảng và Nhà nước dành nhiều nguồn lực đầu tư, phát triển hệ thống hạ tầng giao thông kết nối đến mảnh đất địa đầu cực Bắc của Tổ quốc. Dự kiến hoàn thành vào năm 2025, cao tốc Tuyên Quang - Hà Giang - tuyến cao tốc đầu tiên của tỉnh Hà Giang dài gần 100 km sẽ rút ngắn thời gian di chuyển từ Thủ đô Hà Nội đến Hà Giang chỉ còn chưa tới 4 giờ đồng hồ. Chuẩn bị cho sự hình thành của các khu đô thị, công nghiệp, dịch vụ, du lịch hai bên tuyến, thỉnh thoảng chúng tôi lại thấy những ngôi nhà xây san sát nhau với hàng cây xanh bắt đầu bén rễ… Suốt chặng đường dài, tôi cứ thầm mong Hà Giang sẽ bứt phá, “sống trên đá, thoát nghèo và tiến tới làm giàu trên đá”, hiện thực hóa khát vọng phồn vinh, hạnh phúc cho các dân tộc anh em.

Tháng 11, trên Cao nguyên đá Đồng Văn, những nhánh đào rừng hé nụ hồng như xua tan cái lạnh đầu đông. Trong hành trình về Hà Giang, Đoàn chúng tôi có dịp đến thăm Trường Phổ thông dân tộc nội trú - Trung học cơ sở Phố Bảng (huyện Đồng Văn), được nghe những câu chuyện bám bản, gieo chữ của các thầy, cô trên mảnh đất cực Bắc này. Thầy Phan Xuân Thủy, Hiệu trưởng nhà trường chia sẻ, đối với các thầy, cô giáo vùng cao, để gắn bó với nghề, không chỉ là tinh thần nhiệt huyết, cống hiến, mà còn có tình yêu, tình thương với con trẻ. Nhiều cháu, vì hoàn cảnh khó khăn, nhà xa trường, bố mẹ phải đi làm nương rẫy hoặc làm xa, nên nhà trường vừa là nhà, vừa là trường học. Với 441 học sinh của 11 dân tộc, các thầy, các cô vừa là giáo viên, vừa như những người cha, người mẹ thứ hai của các em…

Gần 20 năm gắn bó với sự nghiệp trồng người, có những người đã lần lượt làm thầy, cô của hai thế hệ trong một gia đình, nay tóc đã điểm bạc. Ai cũng chọn việc nhẹ nhàng, gian khổ sẽ dành phần ai? Dù cuộc sống nơi núi cao còn khó khăn, thiếu thốn, nhưng bằng nghĩa tình sâu nặng với mảnh đất biên cương, người giáo viên nơi đây vẫn tự nuôi dưỡng cho mình những niềm hạnh phúc. Ở các thầy cô có niềm tin, lòng kiên định vượt khó để thắp lên nguồn sáng cho tương lai con trẻ. Hạnh phúc của người thầy là được gieo tri thức và thấy học trò từng bước trưởng thành trong gian khó. Có lẽ vì thế mà nhiều thầy cô lúc đầu đến vùng núi non hiểm trở này dạy học như một nhiệm vụ phải làm, sau đó đã chọn ở lại, thành vợ, thành chồng, chọn gắn bó máu thịt với Hà Giang…

Không chỉ hạ tầng, những năm qua, nhiều quyết sách quan trọng về ưu đãi giáo dục cho học sinh vùng dân tộc thiểu số đã được Nhà nước ban hành, bảo đảm quyền bình đẳng trong học tập cho các em. Sự nghiệp giáo dục ở vùng dân tộc thiểu số đã có những chuyển biến đáng kể. Chúng tôi được chứng kiến hệ thống trường phổ thông dân tộc nội trú, trường phổ thông dân tộc bán trú ngày càng khang trang, đông vui con trẻ. Nhiều học sinh dân tộc thiểu số được hỗ trợ kinh phí sinh hoạt, học tập, nuôi dưỡng tri thức, thắp sáng tương lai…

“Quê ta núi cao cao, suối reo gió ngàn đêm vi vu đón trăng lên. Muôn tiếng ca vang hát mừng vui đón người Mèo có chữ rồi. Vầng trăng chiếu sáng xóa tan đi cuộc đời xưa tối tăm, tiếng khèn trong đêm trăng như ngợi ca thắm cuộc đời trên núi cao”, những lời ca trong bài hát “Người Mèo có chữ” như muốn nói, cuộc sống của đồng bào vùng cao, nhờ ơn Đảng, nay đã khác rồi!