![]() |
Sau gần 40 năm đổi mới, nhiều DN tư nhân Việt Nam đã phát triển lớn mạnh, khẳng định thương hiệu và vươn ra thị trường khu vực, thế giới (Ảnh minh họa: Internet) |
Xóa bỏ triệt để nhận thức, tư tưởng, quan niệm, thái độ định kiến về KTTN
Nghị quyết nêu rõ, trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, KTTN là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia, là lực lượng tiên phong thúc đẩy tăng trưởng, tạo việc làm, nâng cao năng suất lao động, năng lực cạnh tranh quốc gia, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tái cấu trúc nền kinh tế theo hướng xanh, tuần hoàn, bền vững; cùng với kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, KTTN giữ vai trò nòng cốt để xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường gắn với hội nhập quốc tế sâu rộng, thực chất, hiệu quả, đưa đất nước thoát khỏi nguy cơ tụt hậu, vươn lên phát triển thịnh vượng.
Phát triển KTTN nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao vừa là nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, vừa mang tính chiến lược lâu dài; cần được cụ thể hoá trong các chiến lược, chính sách phát triển của đất nước; nhằm phát huy mọi tiềm năng, thế mạnh, giải phóng toàn bộ sức sản xuất, kích hoạt, huy động và sử dụng hiệu quả mọi nguồn lực, nhất là nguồn lực trong nhân dân cho phát triển kinh tế - xã hội, củng cố và tăng cường quốc phòng, an ninh, tăng cường đối ngoại và hội nhập quốc tế.
Xoá bỏ triệt để nhận thức, tư tưởng, quan niệm, thái độ định kiến về KTTN Việt Nam; đánh giá đúng vai trò quan trọng của KTTN đối với phát triển đất nước; nuôi dưỡng, khuyến khích tinh thần kinh doanh, đổi mới sáng tạo (ĐMST) của người dân, doanh nghiệp (DN), tôn trọng DN, doanh nhân, xác định doanh nhân là người chiến sĩ trên mặt trận kinh tế; bảo đảm đầy đủ quyền sở hữu tài sản, quyền tự do kinh doanh, quyền cạnh tranh bình đẳng, được tự do kinh doanh các ngành nghề pháp luật không cấm…
Tạo môi trường kinh doanh thông thoáng, minh bạch, ổn định, an toàn, dễ thực thi, chi phí thấp, đạt chuẩn quốc tế, bảo đảm khả năng cạnh tranh khu vực, toàn cầu. Kịp thời xây dựng, hoàn thiện pháp luật và cơ chế, chính sách đột phá để khuyến khích KTTN phát triển…
Nghị quyết đặt mục tiêu đến năm 2030, KTTN là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia; là lực lượng tiên phong trong phát triển khoa học công nghệ, ĐMST và chuyển đổi số, góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu của Nghị quyết số 57/2024 của Bộ Chính trị và các chủ trương, đường lối.
Phấn đấu đến năm 2030, cả nước có 2 triệu DN hoạt động trong nền kinh tế, 20 DN hoạt động/nghìn dân; có ít nhất 20 DN lớn tham gia chuỗi giá trị toàn cầu.
Tốc độ tăng trưởng của khu vực KTTN khoảng 10 - 12%/năm, cao hơn tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế, đóng góp khoảng 55 - 58% GDP, khoảng 35 - 40% tổng thu ngân sách nhà nước, giải quyết việc làm cho khoảng 84 - 85% tổng số lao động; năng suất lao động bình quân khoảng 8,5 - 9,5%/năm.
Trình độ, năng lực công nghệ ĐMST, chuyển đổi số thuộc nhóm 3 nước đứng đầu ASEAN và nhóm 5 nước đứng đầu Đông Nam Á.
Tầm nhìn đến năm 2045, KTTN Việt Nam phát triển nhanh, mạnh, bền vững, chủ động tham gia vào chuỗi sản xuất, cung ứng toàn cầu; có năng lực cạnh tranh cao trong khu vực và quốc tế; phấn đấu đến năm 2045 có ít nhất 3 triệu DN hoạt động trong nền kinh tế; đóng góp khoảng 60% GDP.
8 nhóm nhiệm vụ, giải pháp để KTTN phát triển đột phá
Nhằm hiện thực hoá mục tiêu phát triển đất nước đáp ứng yêu cầu phát triển trong kỷ nguyên mới, Nghị quyết nêu rõ, việc đổi mới tư duy, thống nhất nhận thức và hành động cần có những giải pháp tổng thể, toàn diện, đột phá để phát huy mạnh mẽ hơn nữa vai trò của KTTN, củng cố niềm tin, tạo khí thế và xung lực mới cho phát triển kinh tế, thúc đẩy tăng trưởng, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia là cần thiết và cấp bách. Trên cơ sở đó, Nghị quyết nhấn mạnh 8 nhóm nhiệm vụ, giải pháp đột phát để phát triển khu vực kinh tế quan trọng này.
Một là, đổi mới tư duy, thống nhất nâng cao về nhận thức và hành động, khơi dậy niềm tin, khát vọng dân tộc, tạo xung lực mới, khí thế mới để phát triển KTTN.
Theo đó, thống nhất nhận thức của cấp ủy, chính quyền, cả hệ thống chính trị, cộng đồng DN và nhân dân về vị trí, vai trò của KTTN; củng cố niềm tin, khát vọng vươn lên và hành động mạnh mẽ của KTTN trong kỷ nguyên mới. Nhà nước kiến tạo, phục vụ, hỗ trợ KTTN phát triển nhanh, bền vững, không can thiệp hành chính vào hoạt động sản xuất - kinh doanh trái nguyên tắc thị trường; xây dựng mối quan hệ giữa chính quyền với DN cởi mở, thân thiện, đồng hành, liêm chính phục vụ, kiến tạo phát triển.
Đẩy mạnh công tác truyền thông, nâng cao nhận thức và hành động khơi dậy tinh thần kinh doanh, khởi nghiệp, sự tự tin, tự cường, tự hào dân tộc của mọi người dân để thúc đẩy phát triển mạnh mẽ KTTN.
Hai là đẩy mạnh cải cách, hoàn thiện, nâng cao chất lượng thể chế, chính sách bảo đảm và bảo vệ hữu hiệu quyền sở hữu, quyền tài sản, quyền tự do kinh doanh, quyền cạnh tranh bình đẳng của KTTN và bảo đảm thực thi hợp đồng của KTTN.
Trong đó, đối với đẩy mạnh cải cách, hoàn thiện, nâng cao chất lượng thể chế, chính sách theo hướng đổi mới tư duy xây dựng và tổ chức thực thi pháp luật bảo đảm nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, sử dụng các công cụ thị trường để điều tiết nền kinh tế; giảm thiểu sự can thiệp và xóa bỏ các rào cản hành chính, cơ chế “xin - cho”, tư duy “không quản được thì cấm”. Người dân, DN được tự do kinh doanh những ngành nghề pháp luật không cấm.
Hoàn thiện hệ thống pháp luật, xóa bỏ các rào cản tiếp cận thị trường đảm bảo môi trường kinh doanh thông thoáng, minh bạch, rõ ràng, nhất quán, ổn định lâu dài, dễ tuân thủ, chi phí thấp.
Chấm dứt tình trạng thanh tra, kiểm tra chồng chéo, trùng lắp kéo dài, không cần thiết; bảo đảm nguyên tắc chỉ thực hiện thanh tra, kiểm tra mỗi năm một lần đối với DN, trừ trường hợp có bằng chứng rõ ràng về việc DN vi phạm; xử lý nghiêm hành vi lạm dụng thanh tra, kiểm tra để gây nhũng nhiễu, gây khó khăn cho DN.
Ba là tạo thuận lợi cho KTTN tiếp cận các nguồn lực về đất đai, vốn, nhân lực chất lượng cao với việc: tăng cường cơ hội tiếp cận đất đai, mặt bằng sản xuất - kinh doanh cho KTTN; đẩy mạnh và đa dạng hóa nguồn vốn cho KTTN; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho KTTN.
Bốn là thúc đẩy khoa học công nghệ, ĐMST, chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, kinh doanh hiệu quả, bền vững trong KTTN với việc triển khai quyết liệt Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị, ban hành khung pháp lý thử nghiệm có kiểm soát (sanbox) đối với công nghệ mới, sản phẩm, dịch vụ, mô hình kinh doanh mới; có chính sách miễn, giảm thuế thu nhập DN cho các DN khởi nghiệp sáng tạo, công ty quản lý quỹ đầu tư mạo hiểm, tổ chức trung gian hỗ trợ khởi nghiệp, ĐMST kể từ thời điểm phát sinh thuế thu nhập DN phải nộp.
Miễn, giảm thuế thu nhập cá nhân cho chuyên gia, nhà khoa học làm việc tại DN khởi nghiệp sáng tạo, trung tâm nghiên cứu phát triển, trung tâm ĐSMT, các tổ chức trung gian hỗ trợ khởi nghiệp ĐSMT.
Năm là tăng cường kết nối giữa DN tư nhân, DN tư nhân với DN nhà nước và DN FDI với việc xây dựng các chuỗi liên kết DN theo cụm ngành, chuỗi giá trị, chuỗi cung ứng. Khuyến khích DN lớn dẫn dắt chuỗi cung ứng nội địa, kết nối với DN nhỏ và vừa, hộ kinh doanh…
Sáu là hình thành và phát triển nhanh các DN lớn và vừa, các tập đoàn KTTN tầm cỡ khu vực và toàn cầu. Theo đó, mở rộng sự tham gia của DN tư nhân vào các dự án quan trọng quốc gia; Nhà nước chủ động có chính sách đặt hàng, đấu thầu hạn chế hoặc chỉ định thầu hoặc có chính sách ưu đãi khuyến khích khu vực KTTN tham gia cùng Nhà nước vào các lĩnh vực chiến lược, các dự án, nhiệm vụ nghiên cứu khoa học trọng điểm, quan trọng quốc gia (như đường sắt tốc độ cao, đường sắt đô thị, công nghiệp mũi nhọn, hạ tầng năng lượng…), những nhiệm vụ khẩn trương, cấp bách. Có giải pháp thúc đẩy DN tư nhân đầu tư mở rộng và phát triển cung ứng dịch vụ y tế, giáo dục chất lượng cao, phát triển công nghiệp văn hóa, công nghiệp giải trí.
Đa dạng hóa, nâng cao hiệu quả các hình thức hợp tác giữa Nhà nước và khu vực KTTN thông qua các mô hình hợp tác công tư, lãnh đạo công - quản trị tư, đầu tư công- quản lý tư…
Bảy là hỗ trợ thực chất, hiệu quả DN nhỏ, siêu nhỏ và hộ kinh doanh. Trên cơ sở đó, rà soát, hoàn thiện khung khổ pháp lý về kinh doanh cá thể, thu hẹp đối đa sự chênh lệch, tạo mọi điều kiện thuận lợi về tổ chức quản trị và chế độ tài chính, kế toán để khuyến khích hộ kinh doanh chuyển đổi thành DN. Xóa bỏ hình thức thuế khoán đối với hộ kinh doanh chậm nhất trong năm 2026.
Tám là đề cao đạo đức kinh doanh, phát huy trách nhiệm xã hội, thúc đẩy mạnh mẽ tinh thần kinh doanh, tạo mọi điều kiện thuận để doanh nhân tham gia quản trị đất nước. Xây dựng đội ngũ doanh nhân có đạo đức, văn hóa kinh doanh, trung thực, thanh liêm, trách nhiệm xã hội gắn với bản sắc dân tộc, tiếp cận tinh hoa văn hóa thế giới, mang trong mình khát vọng xây dựng đất nước giàu mạnh, hùng cường, thịnh vượng. Lấy đạo đức, văn hóa kinh doanh làm cốt lõi, đề cao tinh thần thượng tôn pháp luật.
Đánh giá DN tư nhân theo chuẩn quốc tế trên các tiêu chí cốt lõi: mức độ tuân thủ pháp luật, giải quyết công ăn việc làm, đóng góp vào ngân sách nhà nước và tham gia các hoạt động an sinh xã hội.
Sau gần 40 năm đổi mới, KTTN nước ta đã từng bước phát triển cả về số lượng và chất lượng, trở thành một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Khu vực KTTN nhân hiện có khoảng hơn 940 nghìn DN và hơn 5 triệu hộ kinh doanh đang hoạt động, đóng góp khoảng 50% GDP, hơn 30% tổng thu ngân sách nhà nước và sử dụng khoảng 82% tổng số lao động vào tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm, là lực lượng quan trọng thúc đẩy ĐMST, nâng cao năng suất lao động, gia tăng năng lực cạnh tranh quốc gia, góp phần xoá đói, giảm nghèo, ổn định đời sống xã hội. Nhiều DN tư nhân đã phát triển lớn mạnh, khẳng định thương hiệu và vươn ra thị trường khu vực, thế giới.
Tuy nhiên, KTTN hiện vẫn đối mặt với nhiều rào cản kìm hãm sự phát triển, chưa bứt phá về quy mô và năng lực cạnh tranh, chưa đáp ứng được yêu cầu, kỳ vọng là lực lượng nòng cốt của kinh tế đất nước. Hầu hết DN có quy mô siêu nhỏ, nhỏ và vừa; tiềm lực tài chính và trình độ quản trị hạn chế; phần lớn có năng lực công nghệ, đổi mới sáng tạo thấp; năng suất lao động, hiệu quả hoạt động và sức cạnh tranh chưa cao; tư duy kinh doanh thiếu tầm nhìn chiến lược, thiếu kết nối với các doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Bộ Chính trị nhấn mạnh, có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng nêu trên, nhưng chủ yếu là do: tư duy, nhận thức về vị trí, vai trò của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế còn chưa đầy đủ, chưa theo kịp yêu cầu phát triển; thể chế, pháp luật còn vướng mắc, bất cập; công tác lãnh đạo, chỉ đạo chưa được quan tâm đúng mức; quyền tài sản và quyền tự do kinh doanh chưa được bảo đảm đầy đủ...