Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Thị Bích Ngọc. Ảnh: Lê Tiên |
Phát biểu khai mạc tại phiên họp, Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Thị Bích Ngọc cho biết, tăng trưởng xanh và phát triển bền vững là một trong những trọng tâm của nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam. Là một nước có trách nhiệm cộng đồng, Việt Nam đã tiếp cận với mô hình tăng trưởng xanh từ sớm. Từ năm 2012, Chính phủ đã ban hành Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh trong giai đoạn 2011 - 2020 tầm nhìn đến năm 2050. Quốc hội cũng đã ban hành nền tảng pháp luật, trong đó, sửa đổi và bổ sung các văn bản pháp lý để tạo nền tảng cho phát triển tăng trưởng xanh, khẳng định tầm quan trọng của tăng trưởng xanh hướng tới phát triển bền vững.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã tham mưu Chính phủ ban hành Chiến lược tăng trưởng xanh giai đoạn 2021 - 2030 và Kế hoạch hành động quốc gia về tăng trưởng xanh. Trong đó, nhiệm vụ và hành động được xây dựng trên cơ sở lựa chọn tăng trưởng xanh cao, tính đến các giải pháp khả thi về kỹ thuật, có tính khả thi và phù hợp năng lực, đồng thời, có khả năng thực hiện và đẩy mạnh triển khai các cam kết của Việt Nam tại Hội nghị COP26, thay vì chỉ tính đến các giải pháp có tính khả thi về kinh tế.
Điểm mấu chốt của Chiến lược là cân bằng hài hòa mục tiêu giảm phát thải khí nhà kính với phát triển xã hội, hướng tới phát triển bền vững. Thông điệp xuyên suốt của Chiến lược và Kế hoạch hành động quốc gia đã được nêu rõ, trên tinh thần đó, các bộ, ngành tích cực triển khai tăng trưởng xanh trong phạm vi nhiệm vụ để sửa đổi các nội dung pháp lý theo định hướng tạo điều kiện huy động tài chính, nguồn lực cho tăng trưởng xanh, chuyển đổi năng lượng, kinh tế tuần hoàn, phát thải carbon thấp.
"Trong bối cảnh đó, Chính phủ Việt Nam xác định cộng đồng doanh nghiệp đóng vai trò quan trọng trong thực hiện. Với chủ đề "Cộng đồng doanh nghiệp đồng hành cùng Chính phủ Việt Nam trong thúc đẩy tăng trưởng xanh" của VBF năm nay, chúng tôi hy vọng sẽ cung cấp những thông tin hữu ích và lắng nghe ý kiến thẳng thắn, kinh nghiệm thực tế, phản ánh trực diện những khó khăn vứng mắc của doanh nghiệp. Để từ đó, cộng đồng doanh nghiệp, cùng cơ quan quản lý cùng chung tay tạo môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi và doanh nghiệp phát triển", Thứ trưởng Nguyễn Thị Bích Ngọc cho biết.
Ông John Rockhold - Nhóm Công tác điện và năng lượng của VBF (PEWG):
PEWG hoan nghênh những kết quả tích cực mà ngành điện Việt Nam đã đạt được trong năm 2022, có thể kể đến việc sớm đưa vào vận hành nhiều công trình lưới điện giải tỏa công suất các nguồn năng lượng tái tạo và đảm bảo cung cấp đủ điện an toàn, tin cậy cho sinh hoạt và nhu cầu sản xuất tăng cao sau thời kỳ dịch bệnh.
Chúng tôi trân trọng cảm ơn Chính phủ Việt Nam đã sẵn sàng xem xét các ý kiến đóng góp và thảo luận cùng PEWG cũng như các đơn vị thuộc khối tư nhân trong lĩnh vực điện và năng lượng trong quá trình xây dựng Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050.
Năm 2022, GDP của Việt Nam tăng 8,02% so với mức tăng chỉ 2,58% vào năm 2021. Đây là mức tăng trưởng hàng năm cao nhất kể từ năm 1997, một kết quả ấn tượng trong bối cảnh toàn cầu cùng thời điểm có nhiều bất ổn và biến động. Tuy nhiên, những sự kiện và diễn biến trên toàn cầu trong năm qua càng cho thấy nhu cầu cấp bách cần đẩy nhanh quá trình chuyển dịch năng lượng. Lý do là một hệ thống năng lượng phụ thuộc nhiều vào nhiên liệu hóa thạch như hiện nay có thể tác động rất lớn đến mức chi phí trong nền kinh tế toàn cầu.
Việt Nam không phải ngoại lệ trong xu thế chuyển dịch năng lượng. Quá trình chuyển dịch năng lượng ở Việt Nam còn đi song hành với sự tăng trưởng nhanh chóng của nền kinh tế, quá trình đô thị hóa và công nghiệp hóa. Chúng tôi nhận thấy mong muốn đẩy nhanh chuyển dịch năng lượng, sao cho vẫn đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế và đạt được mục tiêu trở thành quốc gia có thu nhập cao vào năm 2045 của lãnh đạo Chính phủ Việt Nam. Chuyển dịch năng lượng còn mang lại cơ hội việc làm và xu hướng này sẽ ngày càng nhân rộng, tạo ra điều kiện cần thiết cho sự phát triển của năng lượng tái tạo.
Trong năm 2023, Việt Nam đã đặt ra 4 mục tiêu cho quá trình chuyển dịch năng lượng và Nhóm Công tác Điện và Năng lượng sẵn sàng hợp tác với Chính phủ để hỗ trợ quá trình này...
Việt Nam đang ở vị thế tốt hơn bao giờ hết để thu hút khu vực tư nhân đầu tư và hỗ trợ quá trình chuyển dịch năng lượng, hướng tới giảm phát thải. Chúng tôi hoàn toàn ủng hộ việc tập trung xây dựng chính sách để tạo điều kiện tiếp cận tài chính khí hậu trong mọi lĩnh vực của ngành kinh tế và có cơ chế khuyến khích áp dụng các công nghệ tiết kiệm năng lượng, cùng với các chính sách khác, để thu hút nguồn vốn cần thiết để giảm phát thải cho nền kinh tế.
Vào năm 2023, Nhóm Công tác Điện và Năng lượng sẽ soạn thảo báo cáo Kế hoạch Năng lượng sản xuất tại Việt Nam - ấn bản số 3, trong đó xoay quanh cách khu vực tư nhân có thể hỗ trợ thực hiện Quy hoạch điện VIII như thế nào, đặc biệt là trong việc thu hút nguồn vốn từ khu vực tư nhân, cũng như hỗ trợ trong việc lập kế hoạch, vận hành, nâng cao năng lực, cũng như những khuyến nghị về tiêu chuẩn kỹ thuật phát triển bền vững ngành điện. Báo cáo thể hiện nỗ lực của khu vực tư nhân trong việc cùng phối hợp và đồng hành với Chính phủ trong quá trình chuyển dịch năng lượng, thực hiện cam kết của Việt Nam trong JETP và đạt được các mục tiêu của Việt Nam về trung hòa carbon.
Ông Micheal Digregorio - Nhóm Công tác môi trường:
Trong vài năm qua, khu vực tư nhân tăng cường áp dụng các nguyên tắc Tăng trưởng xanh và Kinh tế tuần hoàn trong các chiến lược và kế hoạch phát triển của mình. Động lực cho điều này đến từ ba yếu tố chính: nhu cầu đã được công nhận trong việc giải quyết biến đổi khí hậu, yêu cầu của người tiêu dùng đối với các sản phẩm và dịch vụ và các quy định của chính phủ. Các thành viên của Nhóm công tác môi trường hoan nghênh những nỗ lực của Chính phủ trong việc lồng ghép những nguyên tắc này vào quy định pháp lý, dù chúng tôi có nhiều câu hỏi liên quan đến việc triển khai thực tế và kết quả kỳ vọng.
Nhóm công tác môi trường khuyến nghị một số vướng mắc trong quy định liên quan đến trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất - quy định thêm trách nhiệm của nhà sản xuất để cải thiện việc quản lý và tái chế chất thải.
Ông David John Whitehead - Nhóm Công tác nông nghiệp (CTNN):
Năm 2023, Việt Nam tiếp tục đa dạng hóa thị trường, định hướng các sản phẩm để đáp ứng yêu cầu của thị trường xuất khẩu về an toàn thực, hoàn thiện hiệu quả các hoạt động sau thu hoạch, trong đó có khâu đóng gói. Nhóm CTNN kỳ vọng sẽ có nhiều cơ hội hơn nữa để tăng trưởng xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp trong năm 2023.
Lạm phát tăng cao tại các thị trường xuất khẩu bao gồm Mỹ và châu Âu đã làm giảm nhu cầu nhập khẩu các sản phẩm thủy sản kể từ quý IV/2022, xu hướng này có thể kéo dài hết quý I/2023. Tuy nhiên, dự kiến trong nửa cuối năm 2023, kinh tế thế giới sẽ phục hồi nhu cầu nhập khẩu thủy sản ngày càng tăng.
Ngành nông lâm thủy sản đạt kỷ lục về xuất khẩu trong năm 2022 nhờ đa dạng hóa thị trường và sản phẩm.
Nhờ tăng cường các biện pháp kiểm soát chất lượng, nông sản Việt Nam đã tiếp cận được nhiều thị trường khó tính. Nông dân và doanh nghiệp cũng đã xem xét phát triển các sản phẩm giá trị gia tăng.
Dự kiến trong năm 2023 và những năm tiếp theo, các yêu cầu của thị trường sẽ trở nên khắt khe hơn, buộc toàn ngành phải đổi mới, nâng cao khả năng thích ứng và xác định chính xác các cơ hội để xây dựng một ngành nông nghiệp bền vững, chú trọng đến trách nhiệm đối với môi trường, đồng thời tập trung vào nông nghiệp tuần hoàn như một phần của nền kinh tế tuần hoàn.
Việt Nam đưa ra các cam kết tại Hội nghị Biến đổi khí hậu lần thứ 26 của Liên hợp quốc (COP 26) bảo đảm tăng trưởng sản xuất và bảo vệ môi trường, xây dựng nền nông nghiệp bền vững, tham gia chuỗi giá trị và chuỗi lương thực toàn cầu. Những cam kết đó phải được thể hiện bằng những hành động cụ thể của các nhà sản xuất, những người nông dân chăn nuôi, trồng trọt và những doanh nghiệp FDI trực tiếp tham gia vào ngành nông nghiệp.
Ngành Nông nghiệp tại Việt Nam và trên toàn thế giới trong năm 2022 cần phải tái cơ cấu. Cần đưa ra các ý tưởng mới, các khái niệm thông minh, mô hình canh tác sáng tạo, số hóa, công tác hậu cần (logistics) hiệu quả hơn và tập trung nhiều hơn vào nông nghiệp tuần hoàn và trách nhiệm với môi trường.
Ông Trần Anh Đức - Nhóm Công tác đầu tư và thương mại:
Thời gian qua có thể nhận thấy nhiều điểm cải thiện tích cực trong cải thiện thủ tục liên quan đầu tư, đăng ký doanh nghiệp. Tuy nhiên, vẫn còn một số quy định phức tạp, yêu cầu bản giấy trong khi các doanh nghiệp hiện nay hầu hết chuyển sang làm online. Về thủ tục hành chính, nhiều doanh nghiệp đã có báo cáo phàn nàn về tình trạng nhiều thủ tục giấy tờ phức tạp trong lĩnh vực như kinh doanh bán lẻ liên quan đến các Sở Công Thương, Bộ Công Thương. Trong đó, nhiều thủ tục kéo dài, thậm chí hơn 6 tháng chưa được chấp thuận cấp phép. Chúng tôi kiến nghị cần cải tiến, chấp nhận thủ tục điện tử để giảm bớt chi phí hành chính cho doanh nghiệp.
Về các doanh nghiệp liên doanh, có nhiều doanh nghiệp liên doanh đã đến Việt Nam từ đầu thập niên 1990, đến nay, sau 30 năm hoạt động, nhiều doanh nghiệp cần được gia hạn. Các doanh nghiệp mong có hướng dẫn cụ thể để doanh nghiệp yên tâm được gia hạn dự án, hợp đồng kinh doanh. Thực hiện tốt điều này cũng khẳng định quan điểm của Việt Nam trong việc ưu tiên thu hut vốn đầu tư nước ngoài.
Về khung pháp lý với đất đai và bất động sản, trong giai đoạn vừa qua, lĩnh vực kinh doanh bất động sản gặp nhiều khó khăn, trong đó, có một phần nguyên nhân từ các vướng mắc về thủ tục. Có doanh nghiệp cho biết phải mất 3 - 5 năm, thậm chí hơn 5 năm để thực hiện xong hết thủ tục phát triển dự án bất động sản tại Việt Nam. Nhiều văn bản pháp lý có quy định chồng chéo gây khó khăn và kéo dài. Rất mong các cơ quan chức năng lắng nghe và tích cực tháo gỡ khó khăn, cải thiện pháp lý cho doanh nghiệp.
Gần đây, có thể nhận rõ nỗ lực mạnh mẽ từ Nhà nước, đơn cử, UBND TP.HCM đã lắng nghe và đưa ra danh sách 7 doanh nghiệp bất động sản cần được ưu tiên gỡ vướng. Đây là giải pháp tình thế hiệu quả trong lúc chờ sửa văn bản pháp lý.
Các quy định về đất đai, nhà ở và kinh doanh bất động sản không hướng dẫn rõ ràng các tiêu chí về doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, dẫn đến cách hiểu và giải thích chung là khi có bất kỳ hình thức hay mức độ đầu tư nước ngoài nào, doanh nghiệp sẽ được coi là có vốn đầu tư nước ngoài, và đối mặt với các hạn chế của quy định về nhà ở và kinh doanh bất động sản. Trên thực tế, các nhà đầu tư nước ngoài thường thiết lập nhiều tầng sở hữu để cố gắng giảm thiểu sự không chắc chắn này. Để phù hợp với Luật Đầu tư, doanh nghiệp có từ 50% vốn đầu tư nước ngoài trở xuống nên được coi là nhà đầu tư trong nước khi áp dụng để thực hiện đầu tư cấp độ tiếp theo.
Theo Luật Kinh doanh bất động sản năm 2014 (Khoản 3, Điều 11), có quyền cụ thể cho phép doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đầu tư xây dựng để kinh doanh bất động sản (ví dụ: logistic, cho thuê kho bãi) trong các khu công nghiệp, cụm công nghiệp và khu công nghệ cao. Tuy nhiên, dự thảo Luật Kinh doanh bất động sản (sửa đổi) gần đây nhất dường như đã xóa bỏ quyền này (trong khi vẫn giữ nguyên đối với người Việt Nam định cư ở nước ngoài). Do nhiều doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đang cho thuê lại đất công nghiệp để tiến hành kinh doanh bất động sản, xu hướng thay đổi dự kiến này sẽ gây ra nhiều biến động và cản trở hoạt động đầu tư vào bất động sản công nghiệp tại Việt Nam.
Các công ty ở Việt Nam gặp khó khăn trong việc tiếp cận với các nguồn tài chính cạnh tranh bên ngoài Việt Nam vì họ không thể thế chấp nhà xưởng và quyền sử dụng đất cho các bên cho vay nước ngoài. Các cơ quan lập pháp có thể xem xét sửa đổi Luật Đất đai theo hướng cho phép các công ty ở Việt Nam thế chấp quyền sử dụng đất cho các bên cho vay nước ngoài.
Ông Seck Yee Chung - Nhóm Công tác kinh tế số:
Chúng tôi rất cảm kích khi có cơ hội trình bày với Chính phủ về các xu hướng tổng thể trong các quy định hiện hành hoặc đang trong quá trình dự thảo quản lý nền kinh tế số. Chúng tôi khuyến nghị Chính phủ Việt Nam xem xét lại cách tiếp cận khác để điều chỉnh chính sách cho phù hợp với nền kinh tế số toàn cầu hiện nay, tạo điều kiện đổi mới, khuyến khích đầu tư và mở rộng hoạt động kinh doanh của chúng tôi cũng như tiếp tục thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam.
Cải cách hành chính: Để duy trì khả năng cạnh tranh trong khu vực, Việt Nam cần nhanh chóng tiến hành những cải cách mạnh mẽ hơn bằng cách áp dụng các tiêu chuẩn kỹ thuật quốc tế đã được ban hành, loại bỏ các hình thức về bản chất là giấy phép (ví dụ thông qua yêu cầu đăng ký), các yêu cầu báo cáo trong tất cả các quy định hiện hành và trong tương lai áp dụng cho những ngành có ứng dụng công nghệ thông tin truyền thông (CNTT-TT) và dịch vụ kỹ thuật số.
Các yêu cầu thành lập doanh nghiệp trong nước: Để nền kinh tế số đạt được hiệu quả và mang lại lợi ích kinh tế tối ưu, chúng tôi đề xuất Chính phủ không yêu cầu các nhà cung cấp dịch vụ số nước ngoài phải thành lập doanh nghiệp hoặc xin giấy phép tại Việt Nam. Thay vào đó, Chính phủ có thể áp dụng chế độ thông báo đơn giản.
Lưu chuyển dữ liệu xuyên biên giới: Luồng dữ liệu thông suốt là yếu tố quan trọng đối với mọi doanh nghiệp kỹ thuật số trong nước cũng như nước ngoài hiện đang tham gia vào nền kinh tế số toàn cầu. Chúng tôi kiến nghị loại bỏ mọi hình thức hạn chế việc lưu chuyển dữ liệu xuyên biên giới.
Một trong những điểm đáng chú ý trong việc xây dựng khung khổ pháp lý cho kinh tế số là việc xây dựng Dự thảo Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, Luật Giao dịch điện tử sửa đổi.
Chúng tôi hoan nghênh những cập nhật trong quy định của Chính phủ để phản ánh cách thức mua hàng hóa và dịch vụ mới của người tiêu dùng Việt Nam. Chúng tôi nhận thấy rằng, dự thảo Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng và Luật Giao dịch điện tử sửa đổi đưa ra các khái niệm mới liên quan đến nền tảng kỹ thuật số/nền tảng kỹ thuật số trung gian, trích từ Đạo luật Thị trường Kỹ thuật số (Digital Markets Act - DMA) và Đạo luật Dịch vụ Kỹ thuật số (Digital Services Act - DSA) của châu Âu. Các quy định pháp luật nêu trên của EU được xây dựng và áp dụng trong các bối cảnh chính trị, kinh tế và pháp lý rất khác với Việt Nam.
Đối với Việt Nam, các định nghĩa chung chung và mơ hồ về nền tảng kỹ thuật số và các quy định liên quan được đề xuất trong Dự thảo Luật Giao dịch điện tử và Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng sửa đổi có thể gây ra sự hiểu nhầm và không chắc chắn về mặt pháp lý cho cả nhà cung cấp dịch vụ kỹ thuật số trong và ngoài nước, làm ảnh hưởng tiêu cực đến quá trình đổi mới sáng tạo ở Việt Nam nếu không được triển khai đúng cách. Ở giai đoạn đầu của quá trình phát triển nền kinh tế số, nhiều người tiêu dùng và doanh nghiệp Việt Nam đã và đang hưởng lợi rất nhiều từ các dịch vụ số quốc tế. Chúng tôi kiến nghị Chính phủ Việt Nam tạm dừng việc đưa các quy định về nền tảng kỹ thuật số vào Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng và Luật Giao dịch điện tử của Việt Nam, đồng thời tiếp tục theo dõi để rút kinh nghiệm từ quá triển triển khai ở EU xem liệu có mang lại lợi ích cho doanh nghiệp và người tiêu dùng hay không, để tránh lãng phí chi phí đầu tư và đổi mới.
Trước một số quan ngại liên quan đến Dự thảo Luật Giao dịch điện tử mới nhất vào tháng 2/2023, chúng tôi xin có một số khuyến nghị như sau:
Thứ nhất, cần làm rõ các khái niệm về hệ thống thông tin phục vụ giao dịch điện tử, nền tảng số và nền tảng số trung gian. Thứ hai, cần quy định rõ ràng về dịch vụ xác thực thông điệp dữ liệu, trong đó cần làm rõ dịch vụ xác thực thông điệp dữ liệu theo Luật này không bao gồm dịch vụ nhắn tin OTT mã hóa đầu cuối. Thứ ba, quy định về nghĩa vụ của quản trị viên hệ thống thông tin phục vụ giao dịch điện tử là đảm bảo sẵn sàng kết nối kỹ thuật với các hệ thống giám sát của Nhà nước cũng không hợp lý.
Thứ tư, quy định về trách nhiệm của người quản trị nền tảng số phục vụ nền tảng điện tử báo cáo Bộ Thông tin và Truyền thông (TT&TT) về các sự cố đã xảy ra hoặc các dấu hiệu, nguy cơ hệ thống thông tin bị lợi dụng để thực hiện hành vi vi phạm pháp luật Việt Nam (theo Điểm d, Khoản 2, Điều 48) là quá chung chung vì không rõ những tình huống nào sẽ được xem xét và đánh giá.
Thứ năm, Khoản 5 Điều 52 quy định trách nhiệm của bên xử lý dữ liệu nhưng bên xử lý dữ liệu lại không được xác định trong Dự thảo luật này. Theo Dự thảo Luật này, dữ liệu là thông tin dưới dạng ký hiệu, chữ viết, chữ số, hình ảnh, âm thanh hoặc dạng tương tự. Thông điệp dữ liệu là thông tin được tạo, gửi, nhận và lưu trữ bằng phương tiện điện tử. Phạm vi của các điều khoản đó lớn hơn nhiều so với dữ liệu cá nhân và không phù hợp với Dự thảo Nghị định Bảo vệ dữ liệu cá nhân.
Theo Dự thảo Nghị định Bảo vệ dữ liệu cá nhân, các đơn vị bắt buộc phải có cán bộ chuyên trách và đơn vị phụ trách bảo vệ dữ liệu cá nhân để làm việc với Bộ Công an. Dự thảo Luật Giao dịch điện tử hiện nay cũng yêu cầu các đơn vị xử lý dữ liệu phải có nhân viên/đơn vị khác nhau về bảo mật thông điệp dữ liệu để báo cáo với Bộ TT&TT.
Ông Tony Foster - Nhóm Công tác cơ sở hạ tầng:
Xin được mở đầu với lời khẳng định, cơ sở hạ tầng là lĩnh vực đầu tư đòi hỏi nhiều tiền. 20 năm trước, Dự án Đạm Phú Mỹ đã được cấp phép hoạt động và liên tục mang lại lợi ích to lớn cho Việt Nam, hỗ trợ phát triển tích cực cho khu vực tư nhân.
Tuy nhiên, để tiếp tục thực hiện các dự án đầu tư hạ tầng tại Việt Nam, Nhóm công tác chúng tôi có một số thắc mắc và kiến nghị.
Về các kế hoạch - tổng thể, có 2 nội dung cần được thúc đẩy thực hiện trong thời gian tới. Đó là: Phê duyệt Quy hoạch điện 8 (“QHĐ 8”) và kế hoạch thực hiện; Các quy định của ngành khí và tác động đối với các dự án khí thiên nhiên hóa lỏng (“LNG”).
Về các dự án theo Luật Đầu tư, cần làm rõ liệu các biện pháp bảo vệ của nhà nước có được cung cấp để giải quyết vấn đề rủi ro quốc gia và dự án đối với các dự án không theo phương thức đối tác công tư - PPP theo quy định của Luật Đầu tư hay không (thay vì Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư – Luật PPP). Nếu có, các biện pháp này có tương đương với các biện pháp cho dự án PPP không?
Về hợp đồng mua bán điện, cần làm rõ các quy định về phát triển hợp đồng mua bán điện khung mới cho lĩnh vực LNG và điện gió ngoài khơi với các điều khoản phân bổ rủi ro được bên cho vay chấp nhận trong các giao dịch tài trợ dự án quốc tế.
Về năng lượng tái tạo, cần làm rõ quy trình đăng ký khảo sát địa điểm dự án điện gió ngoài khơi theo Báo cáo 126/BCBTNMT ngày 4/10/2022 của Bộ Tài nguyên và Môi trường, lập quy hoạch không gian biển quốc gia gắn với phát triển các trung tâm điện lực vùng, rà soát căn cứ quyết định giao khu vực biển theo Nghị định 11/2021/NĐ-CP để thu tiền sử dụng khu vực biển tương xứng với chi phí phát triển, vận hành các dự án điện gió, điện khí ngoài khơi.
Bên cạnh đó, cần thúc đẩy tiến trình cải cách thủ tục hành chính và quy định để cho phép khu vực tư nhân đầu tư vào cơ sở hạ tầng lưới điện.
Mặt khác, cần thành lập cơ quan quản lý quốc gia và chương trình đào tạo quốc gia để hỗ trợ phát triển các dự án cơ sở hạ tầng và năng lượng sạch quy mô lớn, nhằm đưa Việt Nam trở thành quốc gia dẫn đầu khu vực và thế giới trong lĩnh vực này, xuất khẩu kỹ năng và năng lượng sạch ra toàn cầu.
Sau kiến nghị của 6 nhóm công tác của VBF, đại diện Cục Điện lực và năng lượng tái tạo - Bộ Công Thương, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Thông tin và Truyền thông, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã phản hồi cụ thể về những khuyến nghị.
Đại diện các bộ, ngành Chính phủ Việt Nam đánh giá cao, ghi nhận những ý kiến góp ý từ cộng đồng doanh nghiệp. Những vướng mắc liên quan đến cách hiểu chưa thống nhất, đến vận dụng thực thi luật đã được làm rõ ngay tại Phiên họp.
Đại diện các bộ khẳng định, hành lang pháp lý về đầu tư, kinh doanh của Việt Nam đã có nhiều cải thiện, được cộng đồng doanh nghiệp ghi nhận đánh giá cao. Tuy nhiên, trong quá trình thực thi pháp luật cũng còn những vấn đề phát sinh, các bộ, ngành chức năng sẽ tiếp thu, tổng hợp, nghiên cứu đầy đủ các ý kiến từ cộng đồng doanh nghiệp trong quá trình hoàn thiện chính sách, cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh ngày càng thuận lợi, thông thoáng hơn.
Ông Takahisa Onose - Nhóm Công tác thuế và hải quan:
Vào đầu tháng 10/2021, 136 nước thành viên của Diễn đàn hợp tác chung của Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) (trong đó có Việt Nam) đã thông qua Tuyên bố chung về việc thực hiện chống xói mòn cơ sở thuế và chuyển dịch lợi nhuận (BEPS) 2.0. Trụ cột 2 của chính sách thuế mới này đã đưa ra giải pháp về thuế suất tối thiểu toàn cầu, nhằm đảm bảo lợi nhuận của các công ty đa quốc gia phải nộp ở mức thuế suất tối thiểu 15% trong trường hợp các khoản lợi nhuận đó đang được hưởng mức thuế suất thực tế thấp hơn, hoặc không chịu thuế.
Khi chính sách này được áp dụng dự kiến vào năm 2024, các công ty đa quốc gia đã và đang đầu tư vào Việt Nam có thể phải nộp thuế bổ sung tại các nước khác liên quan đến hoạt động của các công ty con tại Việt Nam.
Khi đó, chính sách ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp của Việt Nam sẽ trở nên không còn ý nghĩa. Ngoài ra, Nghị quyết số 50-NQ/TW của Bộ Chính trị ngày 20/8/2019 đã đưa ra quan điểm chỉ đạo là ưu tiên các dự án có công nghệ tiên tiến, công nghệ mới, công nghệ cao, công nghệ sạch và đề ra nhiệm vụ quan trọng là cần xây dựng thể chế, chính sách ưu đãi vượt trội, cạnh tranh quốc tế tạo điều kiện kinh doanh thuận lợi thu hút các dự án lớn, trọng điểm quốc gia, dự án công nghệ cao.
Như VBF đã có kiến nghị tại Công văn số VBF15122022 ngày 15/12/2022 gửi Thủ tướng Chính phủ, trong bối cảnh nêu trên, để đối phó với các bất lợi của việc áp dụng Trụ cột 2, tiếp tục thu hút các tập đoàn đầu tư lớn, các dự án công nghệ cao lựa chọn Việt Nam là địa điểm đầu tư của mình theo đúng tinh thần của Nghị quyết số 50- NQ/TW, Chính phủ/Bộ Tài chính Việt Nam cần xem xét các giải pháp để thúc đẩy việc nội luật hóa thuế suất tối thiểu toàn cầu tại Việt Nam và có các phương án hỗ trợ cho các doanh nghiệp và các nhà đầu tư nước ngoài bị ảnh hưởng.
Bà Nguyễn Thị Kim Dung - Nhóm Công tác giáo dục và đào tạo:
Quá trình tái cơ cấu nền kinh tế theo định hướng thị trường và hội nhập toàn cầu sẽ đòi hỏi phát triển hơn nữa nguồn nhân lực ở Việt Nam. Tình trạng thiếu lao động xảy ra ở nhiều doanh nghiệp do họ không tuyển dụng được lao động có trình độ cho vị trí việc làm trong các lĩnh vực mới.
Một vấn đề nổi cộm ở Việt Nam cũng như các quốc gia khác tại châu Á là khoảng cách chênh lệch rất lớn giữa nội dung chương trình đào tạo chính thức và yêu cầu về trình độ, kỹ năng và kinh nghiệm cần thiết để người lao động tìm kiếm và duy trì việc làm. Chúng tôi khuyến nghị nâng cao kỹ năng cho lực lượng lao động tương lai của Việt Nam bằng cách tăng cường phối hợp giữa các cơ sở giáo dục công lập và cơ sở giáo dục tư nhân quốc tế. Chúng ta chưa thể dự báo được những công việc tương lai của hầu hết học sinh, sinh viên ngày nay.
Các cơ sở giáo dục có trách nhiệm giúp học sinh, sinh viên thế hệ hiện tại sẵn sàng cho tương lai, tránh phát triển tụt lại so với thế giới. Một số đề xuất, khuyến nghị như sau:
Cần khuyến khích lối tư duy phi truyền thống khi thực hiện hoạt động giáo dục thông qua các công cụ và nguồn lực công nghệ, nhằm thúc đẩy sự phát triển của giáo dục theo phương thức phi truyền thống. Học sinh, sinh viên sẽ giảm tần suất học tập trong các lớp học truyền thống và thường xuyên sử dụng phương pháp học trực tuyến trên các nền tảng số. Hệ thống giáo dục tương lai phải đáp ứng nhu cầu của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0, phát huy tiềm năng của công nghệ số và xây dựng nền tảng cho hoạt động học tập trong tương lai - từ học tập tại trường học đến học tập tại nơi làm việc.
Thay vì sử dụng danh mục kiểm tra kỹ năng ứng viên, đơn vị tuyển dụng nên áp dụng các phương pháp hiện đại hơn để đánh giá ứng viên cho những việc làm mới - chẳng hạn như đánh giá năng khiếu, đánh giá tâm lý và phỏng vấn dựa trên hành vi.
Nâng cao khả năng tìm kiếm việc làm bằng cách phát triển các kỹ năng làm việc cần thiết và phối hợp với doanh nghiệp tạo cơ hội cho sinh viên trải nghiệm môi trường làm việc ngay trong chương trình học đại học. Các cơ sở giáo dục đại học cần tăng cường hợp tác với khu vực tư nhân để hiểu rõ các biện pháp đào tạo lại kỹ năng mà doanh nghiệp đang thực hiện, sau đó lồng ghép những biện pháp đó vào các khóa học của mình để sinh viên sẵn sàng tham gia thị trường lao động sau khi tốt nghiệp.
Ông Colin Blackwell - Nhóm Công tác nguồn nhân lực:
Phát triển xanh và bền vững sẽ liên quan đến kỹ năng, đầu tư và chuyển giao công nghệ quốc tế vào Việt Nam. Để điều này diễn ra một cách hiệu quả, các doanh nhân và lao động nước ngoài có tay nghề cao có thể đến Việt Nam và quy trình có thể được hợp lý hóa và đơn giản hóa.
Cộng đồng doanh nghiệp xin đưa ra một vài khuyến nghị để đảm bảo: các thủ tục hành chính rõ ràng và thống nhất hơn; có nhiều thời gian hơn để các công ty dự đoán và lên kế hoạch trước để ngăn chặn sự gián đoạn hoạt động và gây ra các vấn đề bất ngờ cho nhân viên nước ngoài và gia đình của họ; cho phép các chuyên gia nhập cư được ủy quyền bởi các công ty bảo trợ để xử lý hành chính cho các công ty bảo trợ; làm rõ quy trình phê duyệt lao động nước ngoài vì điều này gần đây đã trở nên khó khăn hơn nhiều đối với các công ty.
Một vấn đề cụ thể là thủ tục về nhập cư và giấy phép lao động ngày nay đặt ra các thách thức hơn nhiều so với giai đoạn "bình thường cũ". Thị trường Việt Nam đã mở cửa trở lại vào đầu năm 2022, chúng tôi đã hi vọng rằng sẽ thấy được sự ổn định đối với một số quy trình như trước đại dịch, tương đối đơn giản và đáng tin cậy. Tuy nhiên, điều ngược lại đã xảy ra.
Những vấn đề như không có lộ trình rõ ràng cho thời gian bắt đầu, khó khăn trong việc giữ chân lao động nước ngoài do việc chấp thuận về nhu cầu tuyển dụng lao động nước ngoài và yêu cầu gia hạn giấy phép lao động làm chậm trễ trong việc đưa lao động mới vào Việt Nam... là các vấn đề mà các công ty tại Việt Nam đang phải đối mặt trong bình thường mới. Chúng tôi đã có nhiều cuộc thảo luận với lãnh đạo của một số doanh nghiệp lớn tại Việt Nam cũng như một số chủ doanh nghiệp nước ngoài lâu năm, tất cả đều lo ngại trước những thách thức giống nhau.
Ông Martin Koerner - Nhóm Công tác Du lịch:
Du lịch là một trong những ngành chủ lực của nền kinh tế Việt Nam, đóng góp hơn 9% GDP. Tuy nhiên, do ảnh hưởng của đại dịch Covid-19, lượng du khách quốc tế đã giảm mạnh kể từ năm 2020. Để phục hồi sau cuộc khủng hoảng này và thúc đẩy tiềm năng du lịch, Việt Nam cần thực hiện một số thay đổi về chính sách và cải thiện chất lượng dịch vụ.
Cải thiện chính sách nhập cảnh: Một trong những khó khăn đối với du khách nước ngoài khi đến Việt Nam là chính sách thị thực còn hạn chế. Hiện tại, chỉ có 24 quốc gia được hưởng chế độ miễn thị thực tối đa 15 ngày, còn các quốc gia khác phải xin thị thực điện tử hoặc thị thực nhập cảnh sân bay.
Thời hạn miễn thị thực quá ngắn đối với nhiều du khách muốn khám phá các điểm tham quan đa dạng của Việt Nam trong khi quy trình cấp thị thực điện tử và thị thực nhập cảnh sân bay có thể tốn thời gian và bất tiện. Để đơn giản hóa quy trình và thu hút nhiều du khách hơn, cần kéo dài thời gian miễn thị thực lên 30 ngày, tăng danh sách các quốc gia được miễn thị thực cho tất cả các quốc gia châu Âu, Australia, New Zealand, Hoa Kỳ và Canada và cấp thị thực dài hạn 3 - 6 tháng cho những du khách muốn khám phá đất nước trong thời gian lâu hơn, bao gồm cả việc hướng mục tiêu vào phân khúc người cao tuổi có mức chi tiêu cao. Những biện pháp này sẽ khuyến khích nhiều khách du lịch chọn Việt Nam làm điểm đến, tăng mức chi tiêu cũng như mức độ hài lòng của du khách.
Tiếp theo là cải thiện dịch vụ tại sân bay; Loại bỏ quy định về nhân viên ngành du lịch/khách sạn trong Quyết định 2447/QĐ-BYT: Quyết định hiện tại do Bộ Y tế ban hành yêu cầu tất cả nhân viên ngành du lịch/khách sạn luôn đeo khẩu trang khi tiếp xúc trực tiếp với khách hàng.
Ông Bill Howell - Nhóm Công tác khoáng sản:
Việt Nam là quốc gia rất giàu tài nguyên khoáng sản, nhưng cho đến nay mới chỉ một phần nhỏ trong số những tài sản quý giá này được phát hiện. Nguyên nhân là do Việt Nam chưa bao giờ được thăm dò một cách có hệ thống bằng các công nghệ và phương pháp hiện đại, chẳng hạn như thăm dò địa vật lý trên không và các công nghệ thâm nhập sâu để xác định vị trí các mỏ chôn sâu hơn. Hơn nữa, các mỏ gần bề mặt hiện tại của Việt Nam do các doanh nghiệp nhà nước vận hành chưa thu hút được vốn FDI và cùng với đó là các thông lệ tốt nhất trên thế giới để khai thác và chế biến khoáng sản bằng các công nghệ xanh bền vững với môi trường cần thiết để góp phần đáng kể vào cam kết COP 26 của Việt Nam về giảm khí thải carbon dioxide.
Nhóm Công tác khoáng sản đang nỗ lực để tìm cách thu hút vốn FDI, các phương pháp, thông lệ tốt nhất và công nghệ tiên tiến đến Việt Nam để có thể khai thác một số nguồn tài nguyên kim loại cơ bản của mình. Và đặc biệt là các kế hoạch xử lý, tái chế và tinh luyện các kim loại đó ở Việt Nam sẽ được sử dụng các công nghệ hiện đại để giảm đáng kể và cuối cùng là loại bỏ hoàn toàn lượng khí thải carbon dioxide - chẳng hạn công nghệ oxy hóa áp suất, công nghệ hydro xanh, điện khí hóa tất cả các đội ngũ khai thác và sử dụng thủy điện tái tạo và thủy luyện kim trong hoạt động khai thác mỏ và chế biến sâu.
Nhóm Công tác khoáng sản gặp phải sự phối hợp không đồng bộ giữa các bộ và ban ngành khác nhau của Việt Nam liên quan đến thăm dò và khai thác, cả ở cấp trung ương và cấp tỉnh. Những bất cập trong Luật Khoáng sản Việt Nam hiện đang được sửa đổi và hy vọng có thể được cải thiện, cũng như các loại thuế, trong đó có thuế tài nguyên đang ở mức quá cao so với các quốc gia khác cũng là những cản trở đáng kể đối với việc phát triển hiệu quả ngành khai khoáng ở Việt Nam.
Một số vấn đề được nêu ra:
Nhóm Công tác khoáng sản muốn tăng cường tham vấn chi tiết trong ngành khai khoáng về các nội dung chính của Luật Khoáng sản, hiện đang được sửa đổi, cùng với các thông tư hướng dẫn liên quan. Việc xem xét và sửa đổi Luật Khoáng sản năm 2010 của Việt Nam phải công khai và có sự tham vấn, tạo cơ hội cho các công ty khai thác mỏ của Việt Nam và FDI cũng như các chuyên gia khai thác quốc tế được tham gia, thông qua các báo cáo thường kỳ và các hội thảo chuyên ngành.
Do thời gian đầu tư dài, để thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài có chất lượng vào khai thác, Nhóm Công tác khoáng sản đề nghị chính phủ so sánh chế độ tài khóa của Việt Nam với các quốc gia ngang hàng và cung cấp một chế độ tài khóa cạnh tranh với chế độ tài khóa của các quốc gia khác; đơn giản hóa chế độ tài chính hiện hành để dễ giải thích với các nhà đầu tư; tạo sự ổn định tài chính và giảm tần suất thay đổi chính sách do thời gian thực hiện các dự án khai thác kéo dài; tiếp tục hoàn thiện các tiêu chuẩn nội bộ, xem xét công nhận và áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế về tài nguyên khoáng sản (ví dụ: JORC).
Nhóm cũng đề nghị tạo thuận lợi cho việc thử nghiệm và ứng dụng các công nghệ mới hiện còn vướng do chính sách hạn chế tạm nhập vào Việt Nam các thiết bị thí điểm nghiên cứu.
Trả lời kiến nghị của Nhóm Công tác thuế và hải quan, bà Nguyễn Thị Thanh Hằng - đại diện Bộ Tài Chính:
Tạo điều kiện cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là ưu tiên của Bộ Tài chính. Trong năm qua, để hỗ trợ doanh nghiệp vượt qua khó khăn, Bộ Tài chính đã trình các cấp thẩm quyền phê duyệt các chính sách hỗ trợ về thuế, phí… Từ nay đến năm 2027, Bộ Tài chính sẽ rà soát sửa đổi 10 luật thuế. Riêng trong năm 2023 - 2024, Bộ Tài chính sẽ xây dựng Luật sửa đổi bổ sung các Luật Thuế giá trị gia tăng (GTGT), Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt, Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp. Bộ Tài chính đã có công văn xin ý kiến các hiệp hội về Dự án sửa đổi Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt và Luật Thuế GTGT, đề nghị các hiệp hội quan tâm và đóng góp ý kiến tích cực.
Với các kiến nghị cụ thể về Trụ cột 2 của BEPS liên quan thuế tối thiểu toàn cầu, đây là vấn đề mới và quan trọng với Việt Nam. Chính phủ đã giao Bộ Tài chính khẩn trương nghiên cứu. Bộ Tài chính đã có công văn báo cáo Thủ tướng Chính phủ về kết quả nghiên cứu. Thủ tướng Chính phủ đã thành lập Tổ công tác đặc biệt về nội dung này. Sau khi Tổ công tác đặc biệt họp, Bộ Tài chính đã có công văn báo cáo và đề xuất kiến nghị.
Ông Ngô Văn Thịnh - đại diện Bộ Giáo dục và Đào tạo:
Các ý kiến kiến nghị của Nhóm Công tác giáo dục và đào tạo là hết sức xác đáng. Bộ Giáo dục và Đào tạo đang nghiên cứu sửa đổi các văn bản pháp luật để phù hợp với bối cảnh mới, đặc biệt là các quy định về hợp tác đầu tư giáo dục, thủ tục đầu tư kinh doanh… Bộ Giáo dục và Đào tạo tiếp thu các ý kiến và sẽ có phản hồi chính thức.
Đại diện Bộ Công an:
Bộ Công an đang xem xét sửa đổi các quy định về xuất nhập cảnh để phù hợp với bối cảnh mới. Về các kiến nghị của doanh nghiệp liên quan đến xuất nhập cảnh khó khăn là chưa hoàn toàn chính xác. Cơ quan chức năng vẫn đang xem cấp thị thực 3 tháng cho người nước ngoài vào Việt Nam, trừ những người có vi phạm thì mới xem xét cấp 30 ngày. Bộ Công an cũng đang thúc đẩy triển khai thủ tục công trực tuyến và nhận được phản hồi tích cực từ cộng đồng doanh nghiệp.
Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Thị Bích Ngọc phát biểu kết luận:
Phiên kỹ thuật đã thu hút sự tham gia của hơn 300 đại biểu tham dự trực tiếp. 14 đại biểu từ khối doanh nghiệp phát biểu về 2 nhóm vấn đề chính có tính thời sự là kinh tế xanh, phát triển bền vững và nâng cao năng lực cạnh tranh trong bối cảnh mới.
Với nội dung thứ nhất - Tăng trưởng xanh, phát triển bền vững, các ý kiến phát biểu chạm vào nhiều vấn đề ưu tiên trong các lĩnh vực ưu tiên mà Chính phủ Việt Nam đã xác định. Phát triển xanh, chuyển đổi xanh là xu thế tất yếu và Chính phủ Việt Nam xác định đây là lựa chọn tối ưu cho phát triển bền vững, động lực tăng trưởng của Việt Nam trong trung và dài hạn.
Việt Nam là quốc gia đang phát triển với nguồn lực hạn chế, nhưng đã có bước đi sớm trong quá trình này. Tuy nhiên, nguồn lực thực hiện cũng là thách thức lớn đối với Việt Nam, cần có sự đồng hành của khu vực doanh nghiệp. Nguồn lực công - tư, khung khổ pháp lý, sự tham gia của khu vực công mở mức như thế nào để đóng vai trò quan trọng thu hút đầu tư.
Nhiều ý kiến của cộng đồng doanh nghiệp rất xác đáng, chạm vào những vấn đề mang tính cốt lõi, thực tiễn như đối với dự án hạ tầng các vấn đề hiện hữu hiện nay là bảo lãnh Chính phủ, chuyển đổi ngoại tệ, áp dụng luật nước ngoài, chính sách đảm bảo đầu tư… Hay quan điểm với Nhóm Công tác môi trường, cần cách tiếp cận mới trong bảo vệ môi trường, thu gom xử lý rác thải chỉ là khâu nhỏ trong lộ trình thực hiện phát triển bền vững, đã đến lúc cần nghiên cứu quy định doanh nghiệp phải đáp ứng tỷ lệ tái chế nhất định…
Về nội dung thứ hai, nâng cao năng lực cạnh tranh được Chính phủ Việt Nam xác định là chiến lược quốc gia. Thời gian vừa qua, Việt Nam đã làm rất nhiều việc để thúc đẩy năng lực cạnh tranh quốc gia, tham gia sâu rộng vào các hiệp định thế hệ mới, tạo sân chơi rộng mở hơn, năng lực cạnh tranh mạnh mẽ hơn; tập trung nguồn lực đầu tư công trình hạ tầng thiết yếu để tăng cường kết nối, giảm chi phí logistic cho doanh nghiệp… Mặc dù nguồn nhân lực còn bất cập nhưng Chính phủ Việt Nam cũng đã, đang có bước đi quan trọng để cải thiện. Đối với thuế tối thiểu toàn cầu, Chính phủ Việt Nam ủng hộ và sẽ có những bước đi thiết thực, hiệu quả. Thủ tướng Chính phủ đã thành lập Tổ công tác để nghiên cứu vấn đề này, dự kiến tuần tới chúng tôi sẽ có tọa đàm thảo luận lấy ý kiến các chuyên gia để có bức tranh tổng thể.
Sau 25 năm, VBF đã thực hiện rất hiệu quả vai trò cầu nối giữa cộng đồng doanh nghiệp, cơ quan nhà nước, nhưng còn dư địa cải tiến cách làm. Đối với Phiên họp kỹ thuật cần đi thật sát vào những vấn đề vướng mắc cụ thể, tách biệt đâu là vấn đề thực thi, nếu ở thực thi thì nêu rõ vướng ở cấp nào, cơ quan cụ thể nào. Từ đó có những khuyến nghị sát, chuẩn bị tốt nhất cho Phiên cấp cao.