Việt Nam đặt mục tiêu đến năm 2025, kinh tế số sẽ đóng góp 20% GDP và nâng lên 30% GDP vào năm 2030. Ảnh: Lê Tiên |
TS. Nguyễn Quốc Trường |
VIDS đang hợp tác với Ngân hàng Thế giới (WB) và các nhà tài trợ quốc tế xây dựng Báo cáo Việt Nam 2045. Qua những nghiên cứu về thành tựu gần 40 năm đổi mới, xin ông cho biết về những nền móng để phát triển kinh tế trong giai đoạn mới?
Nhìn lại chặng đường cải cách, mở cửa và thực hiện các mục tiêu chiến lược gần 40 năm qua có thể thấy, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện so với những năm trước đổi mới.
Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước (GDP) bình quân của Việt Nam giai đoạn 2021 - 2025 ước khoảng 6%/năm, trong đó giai đoạn 2021 - 2024 đạt 5,7%/năm, dự báo năm 2025 tăng 6,5 - 7%, thuộc nhóm các nền kinh tế có mức tăng trưởng cao nhất khu vực và thế giới. Quy mô GDP từ 346 tỷ USD năm 2020, xếp thứ 37 trên thế giới, dự kiến đạt trên 500 tỷ USD năm 2025, xếp thứ 32 thế giới và thứ 4 trong khu vực ASEAN. GDP bình quân đầu người của Việt Nam cũng tăng khá nhanh và dự kiến đạt khoảng 4.900 USD vào năm 2025.
Bên cạnh đó, chất lượng tăng trưởng kinh tế của Việt Nam từng bước được cải thiện, cơ cấu kinh tế bước đầu dịch chuyển sang chiều sâu, độ mở của nền kinh tế và thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) gia tăng. Khu vực tư nhân đóng góp ngày càng lớn và trở thành động lực quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế…
Bên cạnh những thành tựu nêu trên, nền kinh tế vẫn còn những tồn tại, hạn chế và tiềm ẩn nhiều rủi ro. Các yếu tố nền tảng như thể chế, hạ tầng, nguồn nhân lực còn thấp so với yêu cầu; khả năng chống chịu, thích ứng với tác động bên ngoài còn yếu… Việt Nam vẫn đối diện các thách thức lớn về phát triển hạ tầng và ô nhiễm môi trường; ứng phó với biến đổi khí hậu; giải quyết các vấn đề xã hội như chênh lệch giàu - nghèo và trình độ phát triển giữa một số vùng, miền, địa phương, tốc độ già hóa dân số tăng nhanh…
Vậy theo ông, đâu là những cơ hội cũng như thách thức với kinh tế Việt Nam trong bối cảnh thế giới thay đổi nhanh, khó lường?
Thế giới đang đứng trước các xu hướng lớn, chuyển đổi lớn về khoa học - công nghệ, môi trường và xã hội. Bối cảnh nêu trên đặt ra cả cơ hội và thách thức với Việt Nam.
Về cơ hội, với đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương, uy tín, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng được nâng cao, qua đó tạo thuận lợi để tăng cường thu hút đầu tư, mở rộng thị trường thương mại, tham gia sâu vào chuỗi cung ứng, chuỗi giá trị toàn cầu. Bên cạnh đó, Việt Nam cũng có cơ hội tiếp cận, học hỏi và ứng dụng các mô hình kinh tế mới để tái cơ cấu nền kinh tế, chuyển đổi mô hình và nâng cao chất lượng tăng trưởng trên cơ sở đẩy mạnh cải cách thể chế và tận dụng cơ hội từ Cách mạng công nghiệp 4.0. Xu hướng chuyển đổi xanh tạo cơ hội, không gian mới cho Việt Nam thu hút đầu tư, công nghệ, phát triển kinh tế, nhất là trong lĩnh vực năng lượng xanh. Trong khi đó, sự gia tăng của tầng lớp trung lưu ở Việt Nam không chỉ mang lại cơ hội thúc đẩy tăng trưởng GDP nhờ tăng tiêu dùng và đầu tư, mà còn tạo ra nguồn cung lao động có kỹ năng cao hơn, cũng như thúc đẩy sự phát triển của tầng lớp doanh nhân…
Tuy nhiên, biến động địa chính trị thế giới đang tạo ra nhiều thách thức với Việt Nam. Bất ổn gia tăng dẫn tới rủi ro đầu tư gia tăng, lạm phát và chi phí vận chuyển tăng cao trên toàn cầu. Cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn đang thúc đẩy xu hướng dịch chuyển chuỗi cung ứng mới như dịch chuyển sản xuất về phía các nước bạn bè và về gần các nền kinh tế lớn (friendshoring và nearshoring), khiến các chuỗi cung ứng toàn cầu ngày càng trở nên phân mảnh. Dòng vốn đầu tư vào các nước đang phát triển gặp nhiều rủi ro bởi tình trạng này.
Sự phát triển của khoa học công nghệ và xu hướng chuyển đổi số dẫn đến những thay đổi quan trọng, đòi hỏi việc tái cấu trúc lực lượng lao động của Việt Nam. Đồng thời, nhiều vấn đề mới phát sinh cần giải quyết như an ninh mạng, thể chế phát triển cho các nền tảng công nghệ mới… Trong khi đó, xu hướng dân số già đã và đang làm tăng áp lực về nguồn cung lao động, suy giảm các động lực tăng trưởng, áp lực về tăng ngân sách cho an sinh xã hội.
Việt Nam sẽ phải làm gì để hóa giải thách thức, tận dụng cơ hội, trở thành nước phát triển, thu nhập cao trong tương lai, thưa ông?
Để hiện thực hóa mục tiêu trở thành nước thu nhập cao vào 2045, Việt Nam cần tăng trưởng GDP bình quân đầu người tối thiểu gần 6% mỗi năm. Đây là nhiệm vụ không dễ trong bối cảnh dư địa phát triển theo kiểu truyền thống không còn nhiều.
Theo tôi, nhiệm vụ then chốt là cần đưa khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo thực sự trở thành động lực quan trọng của nền kinh tế, thực hiện hiệu quả các mục tiêu chuyển đổi số. Việt Nam đặt mục tiêu đến năm 2025, kinh tế số đóng góp 20% GDP và nâng lên 30% GDP vào năm 2030; lọt TOP 30 quốc gia dẫn đầu về công nghệ thông tin, chỉ số cạnh tranh - đổi mới sáng tạo vào cuối thập kỷ này. Tuy nhiên, xếp hạng và điểm số về công nghệ toàn cầu cho thấy, Việt Nam chưa thực sự sẵn sàng cho Cách mạng công nghiệp 4.0. Do đó, Việt Nam cần tăng tốc đào tạo nhân lực, phát triển hạ tầng số, bổ sung và thử nghiệm các cơ chế, chính sách, khung khổ pháp lý mới cho phát triển kinh tế số.
Sau cam kết của Chính phủ Việt Nam tại COP26, nước ta đã và đang nỗ lực chuyển dịch năng lượng để đạt được mức giảm phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050. Tuy nhiên, để đạt mục tiêu này, cần có những thay đổi rất lớn mang tính đột phá, nhất là về thể chế. Các trọng tâm chính sách chuyển đổi xanh cần tập trung vào xây dựng lộ trình giảm sâu phát thải carbon trong dài hạn, nâng cao hiệu quả sử dụng năng lượng, khung pháp lý cho chuyển đổi năng lượng, chuyển đổi xanh, phát triển hạ tầng cho năng lượng xanh, thúc đẩy tiêu dùng xanh…
Bên cạnh đó, cần khai thác tốt cơ hội từ sự gia tăng tầng lớp trung lưu và hạn chế tác động tiêu cực từ già hóa dân số. Điều này đòi hỏi phải xây dựng các chính sách và chương trình ứng phó hiệu quả với vấn đề già hóa dân số, với trọng tâm là coi người cao tuổi là nguồn lực chứ không phải gánh nặng trong quá trình phát triển bền vững.
Ngoài ra, Việt Nam cũng cần đặc biệt quan tâm quá trình chuyển đổi không gian phát triển trong bối cảnh hệ thống hạ tầng giao thông ngày càng hoàn thiện, đô thị hóa chuẩn bị bước vào giai đoạn bùng nổ. Sự phát triển nhanh chóng của hạ tầng giao thông, đô thị đang và sẽ tạo ra không gian phát triển mới với các cực tăng trưởng, hành lang kinh tế được hoạch định và phát triển mạnh mẽ, góp phần quan trọng để Việt Nam thực hiện mục tiêu “nước phát triển, thu nhập cao” vào năm 2045.