Đánh giá tác động của TPP và AEC đến nền kinh tế Việt Nam

Trong hầu hết các kịch bản mô phỏng tác động của Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) và Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC), Việt Nam là quốc gia nhận được nhiều lợi ích nhất khi TPP được ký kết. Việt Nam là nước có được mức thay đổi GDP

Trong hầu hết các kịch bản mô phỏng tác động của Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) và Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC), Việt Nam là quốc gia nhận được nhiều lợi ích nhất khi TPP được ký kết. Việt Nam là nước có được mức thay đổi GDP lớn nhất tính theo %, mức tăng đầu tư của Việt Nam là ấn tượng nhất trong các nước, xấp xỉ mức tăng của Nhật Bản, và gần gấp đôi mức tăng của Australia, Malaysia, Mỹ (tính theo giá trị). 

Đây là nhận định của TS. Nguyễn Đức Thành, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách của Đại học Kinh tế thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội, đại diện cho nhóm nghiên cứu “Báo cáo Đánh giá tác động của TPP và AEC đến Việt Nam: Các tác động vĩ mô và trường hợp ngành chăn nuôi” vừa được công bố mới đây.

IMG

Tính lũy kế đến ngày 20/12/2014, các nước TPP có 5.766 dự án đầu tư trực tiếp tại Việt Nam còn hiệu lực, với tổng số vốn đăng ký 100,4 tỷ USD, trong đó Nhật Bản chiếm 37,3 tỷ USD, Singapore 32,9 tỷ USD, Mỹ 10,9 tỷ USD…

 Ảnh: LTT

Xu hướng đầu tư vào Việt Nam từ các nước thành viên TPP và AEC

Theo ông Nguyễn Đức Thành, trong những năm gần đây, xét cả về số vốn đăng ký và số dự án, các nước TPP luôn là những nhà đầu tư lớn vào Việt Nam. Tính lũy kế đến ngày 20/12/2014, các nước TPP có 5.766 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) còn hiệu lực, với tổng số vốn đăng ký 100,4 tỷ USD, chiếm 39,7% lượng FDI đăng ký vào Việt Nam, trong đó phải kể đến các nhà đầu tư lớn như Nhật Bản (37,3 tỷ USD), Singapore (32,9 tỷ USD), Mỹ (10,9 tỷ USD)… .Cho đến cuối năm 2014, 2 trong số 4 quốc gia có tổng mức FDI lớn nhất vào Việt Nam đều là thành viên tham gia đàm phán TPP.

Trong khi đó, vốn FDI trong khối ASEAN vào Việt Nam vẫn chủ yếu đến từ 2 nước đồng thời cũng tham gia TPP là Singapore và Malaysia. Trong số các nước còn lại, Thái Lan là nước có FDI vào Việt Nam lớn nhất, với 379 dự án còn hiệu lực và 6,75 tỷ USD vốn đầu tư đăng ký lũy kế đến cuối năm 2014. Trong khối ASEAN, Việt Nam đã tích cực đầu tư trực tiếp sang 2 nước Lào và Campuchia. Tính đến ngày 31/12/2013, Việt Nam có 380 dự án được cấp phép với tổng số vốn đầu tư đăng ký là 7,1 tỷ USD vào 2 nước này. 

Trên cơ sở phân tích có thể thấy, các nước TPP là những đối tác đầu tư lớn vào Việt Nam trong khi một số nước trong AEC lại là thị trường mà Việt Nam đang hướng tới cho những dự án đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của mình. Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng, mức tăng đầu tư vào Việt Nam là nổi bật nhất khi so sánh với các nước khác tính theo cả phần trăm hay giá trị tuyệt đối; TPP sẽ kích thích sự hình thành các nguồn vốn cố định ở Việt Nam, còn tác động của AEC đối với đầu tư vào Việt Nam sẽ ở mức độ thấp hơn.

“Không nên quá tự mãn với các FTA”

Các nghiên cứu đã có về tác động của TPP đối với các nước tham gia đều cho thấy một dự báo đáng khích lệ rằng, Việt Nam sẽ là nước được hưởng lợi nhiều nhất về kinh tế trong số 12 nước tham gia TPP. Tuy nhiên, theo các chuyên gia, hội nhập luôn mang đến cả cơ hội và thách thức, mức độ mở cửa càng lớn đồng nghĩa với rủi ro càng lớn. 

TS. Nguyễn Đức Thành dẫn chứng, việc Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) đã từng được đặt nhiều kỳ vọng. Tuy nhiên, trên thực tế, việc chưa lường hết rủi ro cũng như sự thay đổi nội tại chưa thích ứng kịp với hội nhập đã khiến cho kết quả đạt được không như kỳ vọng ban đầu. Chẳng hạn như, nguồn vốn lớn ồ ạt đổ vào Việt Nam kèm với chính sách tiền tệ thiếu kinh nghiệm đã góp phần thổi phồng bong bóng bất động sản và khiến lạm phát 2 chữ số trở lại vào năm 2008. Hay như sự phụ thuộc lớn của Việt Nam vào nhập khẩu và FDI, cộng với các ảnh hưởng kéo dài của khủng hoảng kinh tế thế giới và những yếu kém nội tại kéo dài trong giai đoạn hậu WTO đã gióng lên hồi chuông cảnh báo Việt Nam không nên quá tự mãn với việc ký kết những FTA đầy hứa hẹn như TPP, hay ở mức độ thấp hơn như AEC…

Thêm vào đó, tác động của hội nhập cũng sẽ khác nhau ở những ngành khác nhau. Các ngành có lợi thế so sánh sẽ được hưởng lợi nhiều nhất, trong khi những ngành kinh tế kém lợi thế hơn sẽ chịu thua thiệt ở nhiều mức độ khác nhau. Do đó, các chuyên gia khuyến nghị, các nỗ lực tái cấu trúc ngành cũng cần được đẩy nhanh hơn để nâng cao hiệu suất cũng như sức cạnh tranh với các đối thủ nước ngoài ngay trên chính thị trường nội địa.

Với những ưu đãi khi gia nhập TPP và AEC, đầu tư (bao gồm cả đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài) của Việt Nam sẽ tăng mạnh. Với các Hiệp định thương mại, cùng với sự gia tăng các dòng thương mại, các nước trong và ngoài hiệp định sẽ tăng FDI vào Việt Nam. Đây vừa là cơ hội vừa là thách thức đối với Việt Nam. Để tận dụng tối đa cơ hội và vượt qua được những thử thách hội nhập, Việt Nam cần tiếp tục cải cách thể chế, tự do hóa thị trường các yếu tố đầu vào như lao động, vốn, đất đai; cân nhắc các biện pháp cân bằng cán cân ngân sách nhằm bảo đảm sự ổn định vĩ mô và khuyến khích được sản xuất, tiêu dùng. Đặc biệt, cần đẩy mạnh hơn nữa cải cách hành chính, chính sách đầu tư, phát triển các ngành hỗ trợ để nâng cao hiệu quả thu hút và sử dụng dòng vốn FDI vào Việt Nam. 

Lê Xuân

Tin cùng chuyên mục