Ảnh minh họa: Internet |
Nghị định này đã được triển khai hơn 4 năm và đã có tác động tích cực đến hoạt động kinh doanh xuất khẩu gạo. Cụ thể, việc ban hành nghị định và các văn bản hướng dẫn thi hành đã hoàn thiện khung pháp lý cho điều hành xuất khẩu gạo.
Từ cuối năm 2018 đến nay, dù phần lớn thời gian chịu ảnh hưởng bởi dịch Covid-19, tác động giãn cách xã hội trong thời điểm nhất định, nhưng điều hành xuất khẩu gạo của Bộ Công Thương và các bộ, ngành luôn bám sát và quán triệt các mục tiêu, nguyên tắc điều hành xuất khẩu gạo theo quy định của nghị định. Điều này góp phần đảm bảo an ninh lương thực, bình ổn thị trường nội địa, thúc đẩy phát triển sản xuất, xuất khẩu gạo bền vững, nâng cao vị thế, uy tín của xuất khẩu gạo Việt Nam.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả tích cực, trong quá trình thực thi nghị định cũng đã bộc lộ một số vấn đề cần được xem xét, sửa đổi. Cụ thể, Khoản 2, Khoản 3, Khoản 4 Điều 24 Nghị định số 107/2018/NĐ-CP quy định, thương nhân thực hiện báo cáo định kỳ hàng quý, hàng năm về tình hình ký kết và thực hiện hợp đồng xuất khẩu gạo, thực tế tồn kho.
Thế nhưng nhiều thương nhân kinh doanh xuất khẩu gạo chưa thực hiện nghiêm túc trách nhiệm báo cáo theo quy định như không báo cáo, báo cáo không đầy đủ nội dung theo quy định, có báo cáo nhưng không thường xuyên… Việc này đã gây rất nhiều khó khăn cho việc điều hành xuất khẩu gạo.
Hoặc Khoản 6 Điều 24 Nghị định số 107/2018/NĐ-CP quy định: "Thương nhân báo cáo không đúng sự thật hoặc không thực hiện chế độ báo cáo theo quy định tại điều này không được hưởng các chính sách ưu tiên quy định tại Điều 16 nghị định này cho đến khi thương nhân chấm dứt, khắc phục hành vi vi phạm".
Trong bối cảnh mới, các thị trường thực hiện tư nhân hóa, giao dịch hợp đồng xuất khẩu gạo tập trung còn rất ít, kinh phí quảng bá hình ảnh, xúc tiến thương mại lại không đáng kể, không phân biệt giữa doanh nghiệp báo cáo và doanh nghiệp không báo cáo nên quy định của Nghị định 107/2018/NĐ-CP khó có thể xem là "chế tài" để buộc các thương nhân phải thực hiện nghĩa vụ báo cáo. Cơ quan quản lý chỉ có thể kêu gọi, khuyến khích các thương nhân tự giác chấp hành.
Các thông tin, số liệu liên quan (diện tích gieo trồng, sản lượng từng chủng loại lúa, lượng thóc, gạo hàng hóa tồn kho, xuất khẩu...) thường không đầy đủ, xác thực, kịp thời, không phản ánh đúng thực tế. Từ đó gây rất nhiều khó khăn cho điều hành, quản lý sản xuất, xuất khẩu gạo, đặc biệt tại thời điểm có nguy cơ ảnh hưởng đến an ninh lương thực.
Cùng đó, tại Điều 5 Nghị định 107 quy định, Sở Công Thương địa phương chủ trì, phối hợp với Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và cơ quan liên quan tổ chức hậu kiểm kho chứa, cơ sở xay, xát thóc, gạo để đáp ứng điều kiện kinh doanh xuất khẩu gạo của thương nhân sau khi thương nhân được cấp giấy chứng nhận.
Tuy nhiên, thực tế triển khai đã bộc lộ việc chậm tiến hành hậu kiểm do không xác định được Sở Công Thương tại tỉnh, thành phố nào chủ trì do thương nhân kinh doanh xuất khẩu gạo có thể kê khai kho chứa, cơ sở xay xát thóc gạo tại nhiều địa phương để được cấp giấy chứng nhận; việc duy trì điều kiện kinh doanh của các thương nhân còn chưa được quan tâm, đáp ứng, nhất là về vệ sinh an toàn thực phẩm, phòng cháy chữa cháy... nhưng chưa được Sở Công Thương các tỉnh kịp thời giám sát, báo cáo.
Hơn nữa, Sở Công Thương các tỉnh, thành phố chưa có sự chủ động về quản lý nhà nước trong kiểm tra, báo cáo việc duy trì điều kiện kinh doanh xuất khẩu gạo cũng như thay đổi thông tin, năng lực sản xuất của thương nhân trên địa bàn, chủ yếu thực hiện nhiệm vụ khi Bộ Công Thương phát hiện vấn đề và có văn bản chỉ đạo.