![]() |
Đầu tư công phải tiếp tục giữ vai trò như một “đòn bẩy” để thúc đẩy tích lũy vốn, nâng cao năng suất các nhân tố tổng hợp và khơi thông nguồn lực tư nhân để đạt mục tiêu tăng trưởng hai con số giai đoạn 2026 – 2030. Ảnh: Lê Tiên |
NQ 154 nêu rõ, tập trung khơi thông, sử dụng hiệu quả nguồn lực đầu tư công là một trong những nhóm giải pháp để đạt tăng trưởng trên 8% trong năm 2025. Theo đó, phải có giải pháp quyết liệt, kịp thời hơn nữa để đẩy nhanh tiến độ giải ngân vốn đầu tư công, phấn đấu tỷ lệ giải ngân năm 2025 cả nước đạt 100% kế hoạch.
Trong giai đoạn 2026 - 2030, trước nhiều khó khăn thách thức từ trong và ngoài nước, tăng tốc đầu tư công đi đôi với nâng cao hiệu quả đầu tư tiếp tục được xem là động lực tăng trưởng quan trọng. Trong tham luận gửi tới Tọa đàm Đối thoại chính sách về giải pháp tăng trưởng cao, bền vững do Đại học Kinh tế quốc dân (NEU) tổ chức ngày 3/6/2025, PGS. TS. Phạm Văn Hùng, Khoa Đầu tư của NEU nhấn mạnh, để đạt mục tiêu tăng trưởng hai con số giai đoạn 2026 - 2030, đầu tư công phải tiếp tục giữ vai trò “đòn bẩy” để thúc đẩy tích lũy vốn, nâng cao năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) và khơi thông nguồn lực tư nhân. Đặc biệt, dư địa từ các khoản đầu tư công đã thực hiện trong giai đoạn 2011 - 2024 được xem là nguồn lực tiềm ẩn đáng kể đối với tăng trưởng giai đoạn tới.
![]() |
Đầu tư công, đầu tư tư nhân và tăng trưởng GDP của Việt Nam giai đoạn 2011 - 2024 |
Để phát huy động lực này, nhóm nghiên cứu của NEU đề xuất nhiều giải pháp, từ xây dựng, chuẩn bị đến quá trình thực hiện dự án. Trong đó, về phân bổ vốn, cần theo hướng đầu tư công dẫn dắt các lĩnh vực ưu tiên theo mô hình tăng trưởng mới; gắn với định hướng phát triển các vùng động lực và ngành nghề có năng suất biên cao và dựa trên năng suất cận biên và tiềm năng đóng góp vào tăng trưởng dài hạn của từng khu vực và ngành nghề… Đầu tư công phải góp phần hỗ trợ, kiến tạo, thúc đẩy đầu tư tư nhân, đầu tư trực tiếp nước ngoài, ưu tiên đầu tư vào các dự án có tính lan tỏa cao, kích thích đầu tư của nhiều thành phần kinh tế. Đẩy mạnh đầu tư theo phương thức đối tác công tư (PPP) để đầu tư công trở thành “vốn mồi” cho khu vực tư nhân. Điều này đòi hỏi phải hoàn thiện khung pháp lý PPP, chuẩn hóa quy trình đấu thầu và phân bổ rủi ro trong các dự án hạ tầng trọng điểm. Đồng thời, Nhà nước cần triển khai các cơ chế chia sẻ rủi ro, bảo lãnh doanh thu tối thiểu hoặc ưu đãi thuế để thu hút khu vực tư nhân tham gia vào các lĩnh vực có thời gian thu hồi vốn dài, mức độ rủi ro cao nhưng có ý nghĩa chiến lược đối với tăng trưởng. Đây là các công cụ chính sách cần thiết để tạo lập niềm tin cho nhà đầu tư trong các lĩnh vực như hạ tầng kỹ thuật, giáo dục, y tế và chuyển đổi số. Ngoài ra, cần đẩy mạnh liên kết đầu tư công với thị trường tài chính dài hạn, đặc biệt là các kênh tài chính xanh, trái phiếu hạ tầng và các quỹ bảo hiểm nhằm đa dạng hóa nguồn lực phát triển bền vững.
Thực tế đầu tư công là động lực tăng trưởng truyền thống của Việt Nam, nhưng sẽ đối diện với nguy cơ tới hạn đóng góp cho tăng trưởng, TS. Nguyễn Bích Lâm, Nguyên Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê khuyến nghị, cần gắn câu chuyện đầu tư với nâng cao năng suất lao động của nền kinh tế. Cần tái cơ cấu nền kinh tế, xác định tập trung vào ngành nào, lĩnh vực ưu tiên nào để phân bổ nguồn lực đầu tư tập trung, tránh dàn trải. Hiện nay tập trung vào kết cấu hạ tầng, điều này đúng nhưng chưa đủ, đầu tư công cần hướng tới các ngành kinh tế, phát triển doanh nghiệp sản xuất.
Trước câu hỏi những động lực gì cần tạo dựng, nuôi dưỡng và thúc đẩy để nền kinh tế liên tục tăng trưởng cao, kéo dài trong vài thập kỷ tới, GS. TS Ngô Thắng Lợi (NEU) cho rằng, khu vực tư nhân là một mắt xích mang tính đột phá. Tuy nhiên, khu vực kinh tế này đang có những dấu hiệu “chững lại”, có biểu hiện “hụt hơi”…
![]() |
Nguồn lực đầu tư công phải góp phần hỗ trợ, kiến tạo, thúc đẩy đầu tư tư nhân, đầu tư trực tiếp nước ngoài, ưu tiên đầu tư vào các dự án có tính lan tỏa cao. Ảnh: Lê Tiên |
Giải pháp đề xuất từ nhóm nghiên cứu của GS. TS Ngô Thắng Lợi là tăng cường các chính sách hỗ trợ phát triển đối với từng nhóm doanh nghiệp tư nhân. Trong đó, có chính sách phát triển doanh nghiệp tư nhân quy mô lớn, hình thành và phát triển tập đoàn kinh tế tư nhân lớn, tiềm lực mạnh, có khả năng cạnh tranh khu vực và quốc tế. Bảo đảm các cơ chế, chính sách khuyến khích, hỗ trợ phát triển tập đoàn kinh tế tư nhân phù hợp với cơ chế thị trường và thúc đẩy tính tự chủ, cạnh tranh của kinh tế tư nhân. Trong việc khuyến khích phát triển các tập đoàn kinh tế tư nhân, cần rút ra bài học từ Trung Quốc, không biến các cơ chế, chính sách hỗ trợ phát triển thành bao cấp, phục vụ “lợi ích nhóm” dưới mọi hình thức.
Song song với đó, cần có chính sách gia tăng số lượng các doanh nghiệp quy mô vừa, có thể thông qua các chính sách nhằm thúc đẩy tích tụ vốn vốn bằng nguồn nội lực và bằng các phương thức mua bán, sáp nhập, đầu tư cổ phiếu…; cải thiện môi trường kinh doanh, cải cách chính sách thuế để khuyến khích sự tăng trưởng, tích tụ, cải thiện khả năng sinh lời và khuyến khích các doanh nghiệp giữ lại lợi nhuận, tái đầu tư lợi nhuận vào hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp.
Về hỗ trợ cho doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ, cần thực hiện đồng bộ những chính sách để khu vực này có cơ hội tốt hơn trong tiếp cận với các nguồn lực phát triển như: tài chính, đất đai, công nghệ, nhân lực. Riêng về chính sách thuế, cần nhấn mạnh ưu đãi thuế (miễn thuế) đối với doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ chuyển lên từ hộ kinh doanh, nên miễn giảm thuế không chỉ giai đoạn chuyển đổi mà cả một thời gian sau khi chuyển đổi cho đến khi doanh nghiệp hoạt động ổn định…