Luật Công nghiệp công nghệ số: Tập trung thúc đẩy trí tuệ nhân tạo

0:00 / 0:00
0:00
(BĐT) - Chiều 9/5, dưới sự điều hành của Phó Chủ tịch Quốc hội Lê Minh Hoan, Quốc hội đã nghe báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật Công nghiệp công nghệ số. Thay mặt Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội Lê Quang Huy trình bày báo cáo.
Quốc hội nghe trình bày Báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật Công nghiệp công nghệ số
Quốc hội nghe trình bày Báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật Công nghiệp công nghệ số

Theo Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường Lê Quang Huy, tại Kỳ họp thứ 8, Quốc hội đã thảo luận, cho ý kiến về Dự án Luật Công nghiệp công nghệ số (CNCNS), đã có 67 lượt ý kiến đại biểu Quốc hội (ĐBQH) phát biểu. Đa số ý kiến ĐBQH tán thành về sự cần thiết ban hành Luật CNCNS và cơ bản nhất trí với nhiều nội dung của dự thảo Luật.

Ngay sau kỳ họp, Ủy ban Thường vụ Quốc hội (UBTVQH) đã chỉ đạo Thường trực Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường chủ trì, phối hợp với Cơ quan chủ trì soạn thảo quán triệt, bám sát các mục tiêu chính sách, quan điểm và yêu cầu đối với dự án Luật đã trình Quốc hội tại Kỳ họp thứ 8; tổng hợp, nghiên cứu, chỉnh lý dự thảo Luật theo ý kiến của các vị ĐBQH; tiếp tục tổ chức hội thảo, tọa đàm để có thêm cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc hoàn thiện dự thảo Luật, nhất là những nội dung còn có ý kiến khác nhau.

Liên quan đến vấn đề quản lý rủi ro và biện pháp thúc đẩy hệ thống trí tuệ nhân tạo (AI), UBTVQH thấy rằng, dự thảo Luật đã quy định về AI theo hướng thúc đẩy nghiên cứu, phát triển, ứng dụng AI vào cuộc sống; quản lý rủi ro và lấy con người làm trung tâm; quy định quản lý đối với hệ thống AI rủi ro cao, hệ thống tác động lớn và không đặt yêu cầu quản lý đối với hệ thống trí tuệ nhân tạo không rủi ro cao và giao Chính phủ quy định chi tiết phù hợp thực tiễn quản lý ngành, lĩnh vực (Điều 46). Nguyên tắc quản lý rủi ro này được xây dựng trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm quốc tế và phù hợp thực tiễn Việt Nam. Đồng thời, dự thảo Luật cũng bổ sung quy định về Chiến lược nghiên cứu, phát triển và ứng dụng AI (Điều 45) nhằm thúc đẩy, phát triển và ứng dụng AI hiệu quả, bền vững và có trách nhiệm trong các ngành, lĩnh vực.

Các đại biểu dự phiên họp

Các đại biểu dự phiên họp

Về ý kiến đề nghị cần có quy định về sở hữu trí tuệ đối với AI, UBTVQH nhận thấy, pháp luật về sở hữu trí tuệ của Việt Nam quy định quyền sở hữu trí tuệ chỉ có thể thuộc về tổ chức, cá nhân (con người) sở hữu hoặc trực tiếp sáng tạo ra một phần hoặc toàn bộ tác phẩm, sáng chế… chứ không áp dụng đối với AI.

Hiện nay, Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) và nhiều quốc gia vẫn đang tiếp tục nghiên cứu vấn đề về quyền sở hữu trí tuệ đối với các sản phẩm do AI tạo ra, chưa chính thức luật hóa hoặc đưa vào các công ước quốc tế. Do đó, UBTVQH sẽ chỉ đạo nghiên cứu sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện quy định về vấn đề nêu trên trong Luật Sở hữu trí tuệ vào thời điểm phù hợp.

Liên quan đến vấn đề tài sản số, UBTVQH cho rằng rằng, theo dự thảo Luật, tài sản số đã được xác định là tài sản theo pháp luật dân sự hiện hành. Quyền tài sản, quyền sở hữu, giao dịch, bảo mật, trách nhiệm, giải quyết tranh chấp, quản lý rủi ro… đã được điều chỉnh theo quy định của pháp luật hình sự, pháp luật về phòng chống tham nhũng, chống rửa tiền và pháp luật có liên quan. Do vậy, nhằm bảo đảm tính khả thi, linh hoạt và ổn định của hệ thống pháp luật, dự thảo Luật chỉ quy định mang tính nguyên tắc và giao Chính phủ quy định cụ thể cho phù hợp với thực tiễn phát triển.

Cũng theo UBTVQH, dự thảo Luật CNCNS đã có các quy định về nguyên tắc, tiêu chí, thẩm quyền, quyền, trách nhiệm, bảo vệ người sử dụng và miễn trừ trách nhiệm trong thử nghiệm sản phẩm, dịch vụ ứng dụng CNS… và giao Chính phủ quy định chi tiết để thể chế hóa đầy đủ chủ trương của Đảng tại Nghị quyết số 57-NQ/TW. Tuy nhiên, Dự án Luật Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo trình Quốc hội xem xét, cho ý kiến và thông qua tại Kỳ họp thứ 9 cũng có quy định về nội dung này với mục đích để áp dụng cho nhiều lĩnh vực khác nhau.

Để bảo đảm tính thống nhất của các quy định về cơ chế thử nghiệm có kiểm soát, UBTVQH đã chỉ đạo nghiên cứu tiếp thu ý kiến ĐBQH và chỉnh lý Luật Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo theo hướng quy định khung chung về cơ chế thử nghiệm có kiểm soát. Trên cơ sở các quy định khung này, cơ chế thử nghiệm có kiểm soát đối với sản phẩm, dịch vụ ứng dụng CNS sẽ được quy định cụ thể, chi tiết hơn, bảo đảm thống nhất.

Tin cùng chuyên mục