Giáo sư Đào Vọng Đức (bên phải) biết chơi đàn đáy, ngón đàn của ông khi tuôn chảy, khi dạt dào hân hoan như tìm thấy kho báu của đất trời... Ảnh: Phú An |
Trong đó có Giáo sư, Viện sỹ Đào Vọng Đức, người vừa được nhận Giải thưởng Cống hiến của Hội Vật lý Việt Nam vì những đóng góp xuất sắc trong ngành khoa học khám phá tự nhiên này.
Tháng 10 năm 2009, tại kỳ họp của Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO), ca trù Việt Nam được công nhận là di sản văn hóa thế giới cùng với quan họ Bắc Ninh. Từ đây, mở ra một kết nối văn hóa giữa Việt Nam và thế giới theo một cách hoàn toàn độc đáo, không giống bất cứ quốc gia nào. Hồ sơ môn nghệ thuật ca trù ghi nhận, ca trù đã trải qua một quá trình phát triển ít nhất từ thế kỷ 15 đến nay, được biểu diễn trong không gian văn hóa đa dạng gắn liền, ở nhiều giai đoạn lịch sử khác nhau. Mặc dù trải qua nhiều biến động lịch sử, xã hội nhưng ca trù vẫn có một sức sống riêng bởi giá trị của nghệ thuật đối với văn hóa người Việt.
Cũng năm 2009, Trung tâm UNESCO Ca trù chính thức hoạt động tại Hà Nội, với mục tiêu giữ gìn, phát huy nghệ thuật ca trù - một nghệ thuật độc đáo mang tính bác học của dân tộc. Trừ những ngày phải đi xa Hà Nội, gần như các buổi sinh hoạt của Trung tâm hàng tuần đều được đón Giáo sư, Viện sỹ Đào Vọng Đức. Là một nhà khoa học đa tài, Giáo sư hòa quyện tâm hồn mình cùng nghệ thuật ca trù với khả năng nhập cả 2 vai: một kép đàn hoặc một người đánh trống chầu điêu luyện. Nếu những bản ca “Xuân tình”, "Chơi xuân kẻo hết xuân đi", "Gặp xuân"… khiến người nghe như nghiêng ngả với đất trời, với Xuân mới, thì “Kiếp nhân sinh”, “Trần ai ai dễ biết ai”… lại như thức tỉnh, như khiến người nghe giật mình ngẫm về cuộc đời trong dòng chảy thời gian vô tận. “Ai công hầu, ai khanh tướng, trong trần ai, ai dễ biết ai?” hay “Từ nghìn trước đến nghìn sau, kết cục lại một người riêng một kiếp”…, được ca nương chậm rãi cất lên theo cái cách đặt tất cả tâm sức vào từng âm thanh ấy khiến người nghe, dù chỉ một lần thôi cũng đủ để lưu luyến mãi. Đó là cách đặc biệt của ca trù trong nghệ thuật tạo ra tâm lý, không gian đặc hữu riêng, ở hiện tại mà như tách biệt cuộc sống trần thế, như nhìn thấu kiếp nhân sinh… Đó cũng là cái cách tinh tế để ca trù ẩn vào lòng người thật tự nhiên, rồi “trói buộc tâm hồn” của những ai lỡ “dừng một chuyến đò bên bến nước ca trù” vậy.
Giáo sư Đào Vọng Đức là một nhà vật lý người Việt, ông nhận bằng tiến sỹ khoa học năm 1975 và năm 1984, ông đạt danh vị Giáo sư, Viện sỹ Viện Hàn lâm khoa học các nước thế giới thứ 3. Là chuyên gia trong các lĩnh vực lý thuyết đối xứng các hạt cơ bản, lý thuyết thống nhất các tương tác các hạt cơ bản, lý thuyết dây và siêu thống nhất, máy tính lượng tử..., tôi cứ ngỡ lấp đầy tư duy ông là toán, là lý, là khoa học cơ bản… Nhưng không. Được trò chuyện cùng Giáo sư, tôi mới biết, những công trình nghiên cứu khoa học tạo nên tên tuổi của nhà vật lý xuất sắc này được nâng đỡ từ mạch nguồn nghệ thuật đa cảm, tinh tế và sâu lắng - ca trù.
Giáo sư Đức quê ở Hà Tĩnh, nhưng tuổi thơ của ông gắn bó với Nghệ An - vùng đất “địa linh nhân kiệt”, nơi có những danh lam đẹp như tiên cảnh và cả những khắc nghiệt thiên nhiên với nắng cháy rát cát đồi, gió và bão lũ nhấn chìm những ngọn dừa xanh… Mảnh đất muôn vàn thơ mộng và khắc nghiệt ấy đã nuôi dưỡng lớp lớp anh tài và có lẽ khí chất đất trời nơi đây tạo nên nét tính cách khác biệt trong tâm hồn người xứ Nghệ. Đó là bản lĩnh rắn rỏi, kiên cường trước khó khăn và tâm hồn rộng mở đa cảm, giàu chất thơ trước thiên nhiên, cuộc sống. Giáo sư Đức là một điển hình. Ông thành danh trong ngành vật lý nhưng lại nghiêng ngả với ca trù. Trong phòng khách của Giáo sư luôn có cây đàn đáy, thứ đàn cổ dây tơ 10 phím được treo bên trái bức tường. Ông biết chơi đàn đáy, ngón đàn của ông khi tuôn chảy, khi dạt dào hân hoan như tìm thấy kho báu của đất trời. Ông sẵn sàng giảng giải cho ai muốn nghe, muốn hiểu về môn nghệ thuật độc đáo này. Nếu ai đó đã đọc một vài tập nhạc do Giáo sư sưu tầm, hoặc nghe vài làn điệu ca trù sẽ thấy thơ giữ một vị trí rất quan trọng. Diễn xướng của ca trù khéo léo qua tiết tấu, giai điệu mượt mà, đi thẳng vào tận cùng cảm xúc của người nghe.
Giáo sư Đức lý giải sự gắn kết giữa ông với ca trù thông qua triết lý đạo Phật, đến với ông như duyên mệnh. Là một nhà vật lý thành danh với khoảng 100 công trình được công bố trên các tạp chí khoa học uy tín và hướng dẫn thành công 15 tiến sỹ vật lý, Giáo sư chia sẻ một niềm tin rằng, thế kỷ 21 sẽ đánh dấu một bước tiến lớn về trí tuệ, đó là nhận thức khoa học, nghệ thuật và tâm linh không hề đối nghịch nhau, mà là những nhánh của cùng một cội gốc. Với ca trù, ông kể, hồi nhỏ, ông được nghe hát và say mê lời ca của một ca nương, người quê Nam Định nhưng đến sống nhờ ở nhà ông và yêu thương ông như con. Làng Cổ Đạm với những ngọn núi hồng vờn mây ngũ sắc, thuộc huyện Nghi Xuân, Hà Tĩnh là đất tổ của ca trù. Xưa và nay, mùa xuân lễ hội dập dìu, ca trù được thể hiện từ ánh mắt tình tứ, khóe miệng xinh xinh của biết bao cô gái “miệng cười như thể hoa ngâu/cái khăn đội đầu như thể hoa sen”… Vẻ đẹp của ca trù dẫn nhập vào tâm hồn ông từ lúc nào và chưa bao giờ vơi cạn, cứ như một nguồn năng lượng dịu dàng nâng bước cho ông trên con đường tìm kiếm tri thức khoa học và lan tỏa giá trị sống.
Nhà thơ lớn, nhà chính trị quân sự tài ba của dân tộc thế kỷ XIX Nguyễn Công Trứ, quê Hà Tĩnh cũng vì mê ca trù mà dụng tâm phóng bút nên nhiều tuyệt phẩm, định hình lối hát nói phổ biến nhất của ca trù như “Thăng Long hoài cổ”, “Tràng An hoài cổ”… Lời lẽ của ca trù giàu chất thơ, giàu cảm xúc, sâu lắng và uyên bác, thiểu lời mà đa nghĩa. “Cảnh Tây Hồ khen ai khéo đặt/Trong thị thành riêng một áng lâm tuyền/Bóng kỳ đài giăng mặt nước như in/Tàn thảo thụ lum xum toà cổ sát”… Lời hát không chỉ rung động với cảnh sắc, mà còn là tâm trạng trước thế thái, nhân tình, cảnh giờ khắc này đẹp đó, nhưng sau này có còn thế hay chăng…
Xuân mới đã về, trong màn sương và mưa bụi lất phất lại đâu đó “hồng hồng, tuyết/nhớ ngày nào chửa biết cái chi chi”, lại “gặp Xuân ta giữ Xuân chơi/câu thơ chén rượu là nơi đi về… gặp ta nay Xuân chớ lạ lùng/tóc có khác, trong lòng ta chẳng khác”… Âm tiết của ca trù trầm bổng, ngân nga, dẫn dắt tâm hồn người mộ điệu lãng du trong cảm xúc tận cùng.
Dù là môn nghệ thuật kén người nghe, nhưng số người yêu mến ca trù chưa bao giờ vơi cạn. Các nghệ nhân dân gian như Quách Thị Hồ, Hà Văn Cầu, Phó Thị Kim Đức rồi nghệ sỹ ưu tú Bạch Vân, Nguyễn Thị Thiệp, kép đàn Đinh Khắc Ban, Phó Đức Kỳ… là những đào nương, kép đàn xuất sắc, những chủ thể lưu giữ vẻ đẹp đặc sắc của ca trù.
Mạch nguồn của ca trù đẹp như thế, cứ lan tỏa và cũng có khi bùng cháy. Như Giáo sư Đào Vọng Đức chia sẻ, ca trù gói ghém một cách tinh tế, gọn gàng triết lý nhân sinh trong lời hát, nên rất dễ chạm vào trái tim và tâm hồn của mọi người, nếu thực sự tĩnh lặng, lắng nghe…