Mức lương tư vấn quốc tế trong dự án sử dụng vốn vay quá cao sẽ làm tăng chi phí các dự án sử dụng vốn vay này |
Lãi suất tăng khoảng 0,3%
Số liệu từ Cơ quan Hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA) và Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho thấy, trong giai đoạn trước tháng 10/2017, vốn vay hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) của Nhật Bản dành cho Việt Nam có lãi suất dao động từ 0,1 - 1,4%/năm với thời gian trả nợ từ 25 - 40 năm và thời gian ân hạn là 7 - 10 năm.
Trong khi đó, báo cáo mới đây của Bộ Tài chính gửi Thủ tướng Chính phủ về việc chuẩn bị thẩm định các dự án vay Nhật Bản tài khóa 2018 cho biết, từ ngày 1/10/2017, Chính phủ Nhật Bản điều chỉnh giảm mức ưu đãi, tăng lãi suất cho vay đối với Chính phủ Việt Nam. Cụ thể, lãi suất vay thông thường tăng từ 1,2%/năm lên 1,5%/năm; lãi suất ưu đãi áp dụng đối với khoản vay trong các lĩnh vực phát triển nguồn nhân lực, giáo dục, y tế, dạy nghề, môi trường, biến đổi khí hậu tăng từ 0,3%/năm lên 1%/năm.
Theo Bộ Tài chính, dù các khoản vay này đang giảm dần tính ưu đãi, nhưng các điều kiện vay vẫn khắt khe nhằm tạo thuận lợi cho nhà thầu, công ty Nhật Bản. Cụ thể như đưa ra các quy định về chính sách thuế đối với nhà thầu, tư vấn Nhật Bản; quy định về ràng buộc xuất xứ nhà thầu, phương thức mua sắm.
Đồng thời, trong quá trình thẩm định khoản vay, phía Nhật Bản đưa ra các quy định theo hướng tăng chi phí dự án và quy mô khoản vay như quy định về mức lương tư vấn quốc tế và trong nước, mức dự phòng trượt giá... Đáng chú ý, mức lương phía Nhật Bản yêu cầu để lập dự toán các dự án vay vốn tài khóa 2018 của Nhật Bản là trên 30.000 USD/tháng/người (+/-10%), chưa kể các khoản phụ cấp.
Mức này cao hơn khoảng 20 - 25% so với mức lương bình quân của tư vấn nước ngoài trong các dự án vay vốn ODA, vay ưu đãi của Chính phủ và gấp đôi so với thu nhập kê khai nộp thuế bình quân của người có quốc tịch Nhật Bản làm việc tại Việt Nam năm 2016.
Nên chia sẻ để cùng hưởng lợi
“Nhật Bản và Việt Nam có quan hệ đối tác chiến lược sâu rộng. Hai bên đã có mối quan hệ hữu nghị lâu dài và luôn đặt niềm tin lẫn nhau. Do đó, trong các cuộc đàm phán, chúng ta cần thẳng thắn thương lượng để tránh chấp nhận các điều kiện quá bất lợi. Chẳng hạn, mức lương tư vấn quốc tế trong dự án sử dụng vốn vay quá cao sẽ làm tăng chi phí các dự án sử dụng vốn vay này”, ông Doanh nhấn mạnh.
Ngoài ra, theo ông Doanh, tình hình kinh tế Việt Nam đã thay đổi, nhiều doanh nghiệp Việt Nam đã có năng lực hoạt động tốt hơn và hoàn toàn có thể đảm đương nhiều phần việc trong các dự án, gói thầu. Do đó, chúng ta có thể xem xét lại các hợp đồng vay vốn, thương lượng để đưa chi phí lương chuyên gia Nhật Bản về mức hợp lý, đồng thời hỗ trợ để có thêm nhiều doanh nghiệp Việt Nam cùng tham gia thực hiện các dự án, gói thầu này.
Về định hướng sử dụng nguồn vốn ODA trong thời gian tới, ông Doanh cho rằng, do tính ưu đãi của nguồn vốn này gần như không còn nên chúng ta cần quản lý, sử dụng vốn ODA hiệu quả. Nên chia rõ trách nhiệm vay và trả của các bên thay vì chỉ quy về một mối là Bộ Tài chính.
Vốn vay ODA và vay ưu đãi giai đoạn 2018 - 2020 từ Nhật Bản:
Điều kiện vay thông thường với các mức lãi suất từ 0,6% đến 1,2%, thời hạn vay từ 15 năm đến 30 năm, thời gian ân hạn từ 5 năm đến 10 năm.
- Điều kiện vay ưu đãi với các mức lãi suất từ 0,4% đến 1%, thời hạn vay từ 15 đến 30 năm, thời gian ân hạn từ 5 năm đến 10 năm.
- Điều kiện vay ưu đãi với các dự án kỹ thuật cao với các mức lãi suất từ 0,35% đến 0,5%, thời hạn vay từ 15 năm đến 30 năm, thời gian ân hạn từ 5 năm đến 10 năm.
- Điều kiện vay đặc biệt dành cho đối tác kinh tế (STEP) có ràng buộc về xuất xứ hàng hoá và nhà thầu:
(1) Nhà thầu tham gia đấu thầu thoả mãn một trong các điều kiện: (i) là công ty Nhật Bản; (ii) liên doanh do công ty Nhật Bản đứng đầu; (iii) chi nhánh của công ty Nhật Bản tại nước ngoài.
(2) Xuất xứ hàng hoá: Đảm bảo tỷ lệ ít nhất 30% giá trị hợp đồng mua sắm hàng hoá và dịch vụ có xuất xứ từ Nhật Bản.