Theo Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ, cải cách tiền lương không chỉ là điều chỉnh tiền lương cơ bản, tiền lương tối thiểu mà còn rất nhiều vấn đề khác liên quan. Ảnh: VGP |
Buổi làm việc nhằm nghiên cứu, khảo sát phục vụ xây dựng Đề án cải cách chính sách tiền lương, BHXH và ưu đãi người có công.
Tham gia đoàn có đại diện Văn phòng Trung ương Đảng, Văn phòng Quốc hội, Ban Tổ chức Trung ương, các bộ, ban ngành thuộc Chính phủ, TAND Tối cao. Về phía Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (LĐLĐVN) có Chủ tịch Bùi Văn Cường và các Phó Chủ tịch, lãnh đạo các ban trực thuộc.
Hội nghị Trung ương 7 sẽ thảo luận về cải cách tiền lương
Theo Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ, cải cách tiền lương không chỉ là điều chỉnh tiền lương cơ bản, tiền lương tối thiểu mà còn rất nhiều vấn đề khác liên quan đến chính sách tiền lương, ở nhiều khu vực. Cụ thể như tiền lương của cán bộ công chức, viên chức (CBCCVC), lực lượng vũ trang, tiền lương của người lao động khu vực Nhà nước, khu vực sản xuất kinh doanh... Tương tự như vậy, chính sách bảo hiểm xã hội (BHXH) cũng liên quan mật thiết đến người lao động…
Tuy nhiên, mỗi lần Chính phủ trình Đề án cải cách tiền lương để Trung ương Đảng thảo luận thì vấn đề quan trọng là nguồn để cải cách tiền lương. Qua thảo luận, Trung ương thấy rằng cải cách tiền lương không phải chỉ có việc tạo nguồn mà phải dựa vào cả sắp xếp lại bộ máy, tinh giản biên chế…
Hội nghị Trung ương 6 khoá XII đã thông qua 2 nghị quyết quan trọng về tiếp tục đổi mới, sắp xếp lại tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả và nghị quyết về tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng dịch vụ và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập. Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ cho rằng đây là tiền đề quan trọng để Hội nghị Trung ương lần thứ 7 thảo luận cặn kẽ và thông qua một nghị quyết về cải cách tiền lương.
Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ cũng khái quát lại quá trình hình thành chính sách tiền lương hiện nay, khi mà từ năm 1956- 1957, nước ta đã hình thành chế độ tiền lương áp dụng cho các xí nghiệp, nhà máy, nông trường. Năm 1960, với sự trợ giúp của chuyên gia nước ngoài, Việt Nam đã thực hiện cải cách tiền lương áp dụng với người làm việc trong khu vực Nhà nước, công nhân viên chức, sĩ quan. Hệ thống lương quy định cụ thể theo công việc, chức vụ, nhiệm vụ gắn với trình độ chuyên môn nghiệp vụ được đào tạo. Tuy nhiên, thời kỳ này, ngoài lương thì Nhà nước còn bao cấp mạnh theo tem phiếu, thậm chí cán bộ, công chức có nhà ở phân phối. Tổng số người hưởng lương Nhà nước thời điểm này khoảng 1 triệu người.
Năm 1985, Việt Nam cải cách tiền lương lần thứ 2 và tới năm năm 1993 là lần cải cách tiền lương lớn nhất từ trước tới nay. Lần này, việc cải cách đã mở rộng quan hệ tiền lương cùng hệ thống thang, bảng lương.
Trưởng Ban Chỉ đạo cũng chỉ ra những bất cập của chính sách tiền lương hiện nay là chưa làm người lao động gắn bó với công việc, mức lương tối thiểu chưa bảo đảm mức sống tối thiểu. Quan hệ tiền lương mang tính bình quân, thấp hơn nhiều quan hệ tiền lương trên thị trường lao động. Hệ thống thang bảng lương phức tạp và lạc hậu, mở rộng đối tượng và các loại phụ cấp tạo bất cập cho các cơ quan, có rất nhiều các loại phụ cấp.
Cơ chế quản lý tiền lương và thu nhập còn nhiều bất cập (lương gồm cơ bản, thưởng, phụ cấp và khoản ngoài lương mà khoản ngoài lương lớn hơn lương). Tiền lương của lãnh đạo doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) quá cao so với hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp rồi sau này điều chỉnh lại thì có bất cập mới là tiền lương lãnh đạo DNNN bị đóng khung.
Nguyên nhân của thực trạng này là đối tượng hưởng lương tăng nhanh mà ngân sách không đáp ứng kịp (tính tới nay là hơn 8 triệu người hưởng lương từ ngân sách). Chậm cụ thể hoá quan điểm chi tiền lương là chi đầu tư phát triển để nâng cao chất lượng công chức; chưa tạo đột phá về quản lý ngân sách; chưa quản lý tốt tiền lương. Chưa khắc phục bất cập quản lý DNNN, đơn vị sự nhiệp công.
Do đó, Phó Thủ tướng cho biết các đoàn khảo sát của Ban Chỉ đạo sẽ tập trung làm rõ các vấn đề về tiền lương cơ sở, lương tối thiểu vùng, quan hệ tiền lương tối thiểu- lương tối đa, các chế độ phụ cấp, cơ chế quản lý tiền lương và thu nhập; tạo nguồn cải cách tiền lương.
Với hệ thống công đoàn có đặc thù riêng trong vấn đề tiền lương, Phó Thủ tướng đề nghị cần làm rõ việc tính toán, thiết kế thang- bảng lương, tìm nguồn chi trả, cách quản lý và cách trả lương cho cán bộ, viên chức. Với khu vực sản xuất, Tổng LĐLĐVN làm rõ về tiền lương tối thiểu vùng.
“Hôm nay chúng ta khởi đầu khảo sát vấn đề tiền lương cho Hội nghị Trung ương 7, nhưng còn gian truân, phải tập trung trí tuệ, phương pháp thực hiện, mời các chuyên gia về lĩnh vực này tham gia đoàn khảo sát”, Phó Thủ tướng nói.
Quang cảnh cuộc họp. Ảnh: VGP
Tiếp thu ý kiến chỉ đạo của Phó Thủ tướng, Chủ tịch Tổng LĐLĐVN Bùi Văn Cường đã báo cáo khái quát tình hình thực hiện chính sách tiền lương trong hệ thống công đoàn và tình hình thực hiện chính sách tiền lương, BHXH và ưu đãi người có công.
Trong hệ thống của liên đoàn lao động thì cấp Trung ương là Tổng LĐLĐVN; 63 LĐLĐ tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; 20 công đoàn ngành Trung ương và tương đương; cấp trên trực tiếp cơ sở có 1.157 đơn vị, gồm 710 LĐLĐ cấp huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, 616 công đoàn giáo dục cấp huyện.
361 công đoàn ngành địa phương (hiện nay đang thực hiện giải thể các công đoàn giáo dục huyện và sắp xếp lại các công đoàn ngành địa phương có dưới 2.000 đoàn viên); 48 công đoàn các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế của 46 LĐLĐ tỉnh, thành phố; 25 công đoàn tổng công ty và 13 công đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở đặc thù khác; cấp cơ sở gồm 126.000 Công đoàn cơ sở với trên 1,1 triệu cán bộ công đoàn không chuyên trách.
Ngoài ra tổ chức công đoàn có 126 đơn vị sự nghiệp công đoàn gồm 10 đơn vị trực thuộc Tổng LĐLĐVN; 113 đơn vị sự nghiệp trực thuộc các LĐLĐ tỉnh, thành phố và 3 đơn vị trực thuộc công đoàn ngành Trung ương và tương đương.
Toàn hệ thống công đoàn có 14.957 CBCCVC và người lao động; thu nhập bình quân 6.822.204 đồng/người/tháng.
Tại buổi làm việc, các ý kiến bày tỏ thống nhất một số nội dung như: Khi xác định vị trí việc làm thì duy trì rất ít phụ cấp (chỉ còn phụ cấp khu vực, ngành nghề); tăng quyền quản lý tiền lương cho người sử dụng lao động kể cả trong khối công chức, viên chức; tiền lương tối thiểu phụ thuộc nhiều yếu tố không chỉ có mức sống tối thiểu nhưng phải hướng tới đáp ứng mức sống tối thiểu và đặt ra vấn đề có nên quy định tiền lương tối thiểu chung cho các khu vực không.
Đối với Tổng LĐLĐVN phải chú ý tới đặc thù ngành để không quản lý biên chế cào bằng, phải bảo đảm thu để chi cho lương. Xác định nguồn trả lương phải gắn với cải cách bộ máy và tinh giản biên chế, phát triển kinh tế để thu và từ các khoản tiết kiệm. Về chi trả BHXH thì tuân thủ nguyên tắc bao phủ, chia sẻ rủi ro và tổ chức thực hiện chính sách này không chi trả quá nhiều và cũng không quá “cứng”.
Sau đợt khảo sát ở Tổng LĐLĐVN, Ban Chỉ đạo sẽ khảo sát tại các cơ quan khác như TAND Tối cao, Uỷ ban Trung ương MTTQ Việt Nam,…