Đầu tư mạnh mẽ cho hạ tầng số, nghiên cứu và phát triển (R&D), nhân lực công nghệ là điều kiện tiên quyết để tạo đột phá tăng trưởng kinh tế trong dài hạn. Ảnh: Lê Tiên |
Tuy nhiên, với quyết tâm của Đảng và Nhà nước, ông cho rằng, chúng ta có thể đặt niềm tin về triển vọng tạo đột phá cho nền kinh tế trong kỷ nguyên mới.
GS. TS. Nguyễn Đức Khương |
Sau 50 năm thống nhất và không ngừng phát triển, Việt Nam ngày càng khẳng định vị thế của một quốc gia độc lập và vững mạnh, đạt nhiều thành tựu về kinh tế, khoa học, công nghệ. Ông cảm nhận gì về những đổi thay của nền kinh tế trong nửa thế kỷ qua?
Tôi đánh giá cao những thành tựu mà đất nước ta đã đạt được trong cả chặng đường phát triển kinh tế suốt 50 năm qua, đặc biệt kể từ thời kỳ Đổi mới đến nay. Từ một nước nông nghiệp nghèo vừa thoát khỏi chiến tranh, quy mô nền kinh tế nhỏ bé với tổng sản phẩm quốc nội (GDP) khoảng 8 tỷ USD (1986), Việt Nam đã có những bước chuyển mình đáng nể. Sau gần 40 năm, quy mô nền kinh tế đạt hơn 476 tỷ USD năm 2024, GDP bình quân đầu người đạt mức 4.700 USD, tăng gần 60 lần so với những năm đầu đổi mới.
Với môi trường vĩ mô và tốc độ tăng trưởng ổn định, Việt Nam đã từng bước vươn lên trở thành một trong những nền kinh tế năng động nhất khu vực, thu hút nhiều nhà đầu tư nước ngoài. Song song, kết cấu hạ tầng như hệ thống giao thông, năng lượng, viễn thông được đầu tư nâng cấp, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội.
Điều tôi trăn trở là việc ứng dụng khoa học công nghệ vào các lĩnh vực của nền kinh tế vẫn còn chậm so với nhiều nước trên thế giới. Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia đã nhìn nhận: “Thời gian qua, Đảng, Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, chính sách đẩy mạnh ứng dụng, phát triển khoa học, công nghệ, thúc đẩy đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, chủ động, tích cực tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, đạt được nhiều kết quả quan trọng. Tuy nhiên, tốc độ và sự bứt phá về phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia còn chậm; quy mô, tiềm lực, trình độ khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo quốc gia còn khoảng cách xa so với nhóm các nước phát triển; nghiên cứu, ứng dụng khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo chưa có bước đột phá, chưa làm chủ được công nghệ chiến lược, công nghệ cốt lõi”.
Đây là vấn đề đáng lưu tâm hàng đầu bởi khoa học công nghệ là một trong những vũ khí chiến lược để cạnh tranh và tạo bước tăng trưởng đột phá trong dài hạn. Những tiến bộ về khoa học công nghệ không chỉ giúp nâng cao hiệu quả sản xuất mà còn góp phần cải thiện chất lượng cuộc sống, thúc đẩy phát triển bền vững và khẳng định vị thế quốc gia trong khu vực cũng như trên thế giới. Các quốc gia chuyển đổi thành công từ nền kinh tế thu nhập trung bình lên nền kinh tế thu nhập cao (Singapore, Hàn Quốc, Ba Lan…) đều phải ưu tiên đầu tư vào khoa học công nghệ.
Tôi muốn lưu ý là không đào tạo tốt thì không có nền khoa học công nghệ tiên tiến, không có khoa học công nghệ tiên tiến thì không có đổi mới sáng tạo, không có đổi mới sáng tạo thì không tạo ra được những giá trị khác biệt và năng lực cạnh tranh quốc gia. Khi đó, mong muốn năng suất cao, tạo định vị cao cho Việt Nam trong chuỗi giá trị khu vực và quốc tế sẽ khó thành hiện thực.
Để bắt kịp đà phát triển khoa học công nghệ trên thế giới, Việt Nam có thể học hỏi điều gì từ các nước khác, thưa ông?
Thành công của một số quốc gia trong kỷ nguyên của công nghệ và trí tuệ nhân tạo (AI) gợi mở nhiều điều đáng học hỏi cho Việt Nam. Đó là chiến lược đầu tư mạnh mẽ cho hạ tầng số, nghiên cứu và phát triển (R&D), nhân lực công nghệ. Về hạ tầng số, các quốc gia dành mức đầu tư lớn cùng với việc thiết lập các khung pháp lý phù hợp để bảo vệ quyền riêng tư, sở hữu trí tuệ và an ninh mạng. Trong khi đó, theo báo cáo mới nhất về chỉ số phát triển hạ tầng số (ICT Development Index) của Liên minh Viễn thông quốc tế (ITU), Việt Nam xếp thứ 72/170 quốc gia trên thế giới và đứng thứ 5/11 trong ASEAN, sau Singapore, Brunei, Malaysia và Thái Lan.
Xu thế đầu tư mạnh mẽ cho R&D, đổi mới sáng tạo trong kỷ nguyên số càng cho thấy mức độ ưu tiên và tính chiến lược của khoa học công nghệ. Hai cường quốc công nghệ Mỹ và Trung Quốc đã và tiếp tục đầu tư mạnh cho R&D, đồng thời thúc đẩy sự phát triển các công nghệ lõi như AI, dữ liệu lớn (Big Data) và công nghệ bán dẫn. Các tập đoàn lớn như Google, Microsoft cũng đầu tư hàng tỷ USD vào nghiên cứu AI mỗi năm.
Ở nước ta, con số được ghi nhận về mức đầu tư R&D so với GDP năm 2023 là 0,4% (Báo cáo Hệ sinh thái Đổi mới sáng tạo mở Việt Nam 2024), trong khi đó, tỷ lệ này của các nước trong cùng khu vực ở mức cao hơn, như Thái Lan là 1,3%, Singapore là 2,2%, Malaysia là 1%.
Hạ tầng số và R&D cần được chú trọng cùng với việc phát triển nguồn nhân lực. Đây là yếu tố chủ chốt để khai thác và ứng dụng hiệu quả các lợi ích từ công nghệ. Các quốc gia như Hàn Quốc, Singpapore đã thành công trong việc phát triển lực lượng lao động kỹ thuật cao thông qua nâng cấp hệ thống giáo dục và khuyến khích học tập suốt đời.
Còn nhiều khía cạnh để phân tích về sự thành công của các quốc gia, song 3 nội dung trên gắn liền với 3 trụ cột chính là phát triển nhân tài, đầu tư đổi mới sáng tạo và kết hợp công nghệ với phát triển bền vững để tập trung vào nắm bắt cơ hội. Việt Nam, với lợi thế về nguồn nhân lực trẻ, năng động và nền kinh tế đang phát triển, có tiềm năng lớn để trở thành một trong những quốc gia dẫn đầu trong kỷ nguyên công nghệ. Để làm được điều này, cần có chiến lược tổng thể, tập trung vào đầu tư công nghệ, giáo dục và hạ tầng.
Đến thời điểm này, theo ông, Việt Nam có đủ điều kiện để sẵn sàng tạo nên bước đột phá về phát triển kinh tế từ khoa học công nghệ không?
Quyết tâm chính trị của Đảng và Nhà nước đã khá rõ ràng trong việc thúc đẩy từ mọi khía cạnh để tăng đầu tư vào khoa học công nghệ với kỳ vọng tạo đột phá phát triển kinh tế trong thời gian tới. Nghị quyết 57 của Bộ Chính trị, như tôi đề cập ở trên, thể hiện rõ ý chí của Đảng trong việc tập trung cho phát triển khoa học công nghệ. Tại Nghị quyết, Bộ Chính trị đặt ra những mục tiêu và giải pháp toàn diện, tạo đột phá phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, để đưa đất nước phát triển mạnh mẽ trong kỷ nguyên mới. Trong đó, tôi ấn tượng với mục tiêu đến năm 2030, kinh phí chi cho R&D đạt 2% GDP, trong đó kinh phí từ xã hội chiếm hơn 60%; bố trí ít nhất 3% tổng chi ngân sách hằng năm cho phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số quốc gia và tăng dần theo yêu cầu phát triển.
Về giải pháp, điểm quan trọng là Nghị quyết yêu cầu ban hành cơ chế đặc thù thu hút người Việt Nam ở nước ngoài và người nước ngoài có trình độ cao về Việt Nam làm việc, sinh sống. Có cơ chế đặc biệt về nhập quốc tịch, sở hữu nhà, đất, thu nhập, môi trường làm việc nhằm thu hút, trọng dụng, giữ chân các nhà khoa học đầu ngành, các chuyên gia, các “tổng công trình sư” trong và ngoài nước có khả năng tổ chức, điều hành, chỉ huy, triển khai các nhiệm vụ trọng điểm quốc gia về khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, phát triển công nghệ AI và đào tạo nguồn nhân lực. Kết nối và phát triển mạng lưới chuyên gia, nhà khoa học trong nước và quốc tế.
Từ phía Chính phủ, tại Quyết định 1437/QĐ-TTg về phát triển kinh tế số, Thủ tướng đã giao nhiệm vụ cho các cơ quan, đơn vị với thời hạn hoàn thành cụ thể. Trong đó, 5 ngành/lĩnh vực được xác định là trọng tâm phát triển kinh tế số, gồm: thương mại bán buôn, bán lẻ; nông nghiệp; công nghiệp chế biến, chế tạo; du lịch; logistics. Tại Quyết định số 1017/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình Phát triển nguồn nhân lực ngành công nghiệp bán dẫn đến năm 2030, định hướng đến năm 2050, Thủ tướng đặt ra các nhóm nhiệm vụ, giải pháp về nghiên cứu, xây dựng và hoàn thiện cơ chế, chính sách đặc thù; huy động, đa dạng hóa nguồn lực; xây dựng hệ sinh thái, tạo đầu ra cho nguồn nhân lực, hỗ trợ phát triển doanh nghiệp; tổ chức đào tạo; nghiên cứu và phát triển.
Các chính sách này thể hiện tầm nhìn chiến lược của Chính phủ trong việc tận dụng những cơ hội của làn sóng phát triển công nghệ đang diễn ra, đồng thời, có các giải pháp chiến lược phù hợp.
Những chính sách trên, nếu được thực hiện tốt, sẽ tạo động lực mạnh mẽ cho việc đầu tư và phát triển các ngành công nghệ cao. Trong bối cảnh Việt Nam cần làm chủ con đường phát triển, nắm bắt cơ hội và thích ứng với một thế giới không ngừng biến đổi, đặc biệt là sự phát triển về công nghệ, việc phát huy sức mạnh trí tuệ tập thể đóng vai trò then chốt trong phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao để làm chủ công nghệ, đề xuất giải pháp và triển khai các dự án hiệu quả. Việt Nam, với lợi thế về nguồn nhân lực trẻ, năng động và thị trường nội địa lớn, đang đứng trước cơ hội lịch sử để phát triển.
Trong sự chuyển động của thời cuộc, một số doanh nghiệp Việt Nam đã và đang nỗ lực nắm bắt cơ hội, góp phần đưa đất nước bước vào chặng đường phát triển mới. Xin chia sẻ góc nhìn của ông về vai trò của doanh nghiệp Việt Nam trong việc đưa đất nước nhập cuộc và phát triển cùng các quốc gia lớn trên thế giới?
Doanh nghiệp luôn là trung tâm của các cuộc cách mạng về công nghệ. Với số lượng doanh nghiệp nhỏ và vừa (SME) chiếm tỷ lệ 98% tổng số doanh nghiệp trong nền kinh tế, những bước tiến mạnh mẽ của một số doanh nghiệp công nghệ lớn của Việt Nam trên thị trường quốc tế cho thấy tinh thần tự cường, dám nghĩ, dám làm. Các sản phẩm và dịch vụ của các doanh nghiệp Việt Nam ngày càng phổ biến trên thị trường quốc tế, góp phần quảng bá hình ảnh đất nước và thu hút đầu tư nước ngoài. Sự thành công của các doanh nghiệp lớn tạo ra hiệu ứng lan tỏa, khuyến khích các SME đổi mới và phát triển.
Theo Báo cáo ứng dụng công nghệ trong kinh doanh 2024 khu vực châu Á - Thái Bình Dương của CPA Australia, tỷ lệ ứng dụng chiến lược số, công nghệ AI vào chiến lược tổ chức chung của doanh nghiệp Việt Nam cao hơn so với doanh nghiệp ở các thị trường khác trong khu vực. Cụ thể, có tới 74% doanh nghiệp được khảo sát tại Việt Nam đã và đang áp dụng chiến lược số vào hoạt động kinh doanh, cao hơn nhiều so với mức trung bình 63% của khu vực châu Á - Thái Bình Dương.
Tuy nhiên, với khoảng cách còn xa về hạ tầng số và đầu tư cho R&D, Việt Nam cần hiện thực hóa các giải pháp tại Nghị quyết 57 và các quyết định của Thủ tướng Chính phủ để tạo động lực khuyến khích doanh nghiệp Việt Nam đầu tư cho R&D, tạo ra các sản phẩm, dịch vụ có tính cạnh tranh cao trên thị trường quốc tế. Có thể nghiên cứu một hiệp ước tăng trưởng - việc làm - công nghệ giữa Chính phủ, doanh nghiệp và các hiệp hội doanh nghiệp để tạo động lực, xung lực mới cho giai đoạn bứt phá.
Các doanh nghiệp cần có chiến lược dài hạn và xác định mô hình hoạt động không chỉ là sản xuất gia công mà cần tham gia vào các khâu có giá trị gia tăng cao hơn như thiết kế, R&D và nắm bắt các xu hướng bền vững. Tiếp tục áp dụng phương pháp quản trị hiện đại, xây dựng đội ngũ nhân sự chuyên nghiệp, có năng lực cạnh tranh, tìm kiếm các đối tác để cùng nhau phát triển và hấp thụ công nghệ mới.
GS. TS. Nguyễn Đức Khương là người Việt Nam đầu tiên lọt TOP 10 chuyên gia kinh tế trẻ hàng đầu thế giới do Dự án Research Papers in Economics (RePEc) bầu chọn. Ông có nhiều năm kinh nghiệm tham vấn chiến lược cho chính phủ, địa phương và các tập đoàn đa quốc gia về phát triển bền vững. Ông hiện là Giám đốc điều hành Trường Quản trị kinh doanh Leonard de Vinci (EMLV Business School, Paris, Pháp) và cũng là Giáo sư thỉnh giảng tại Trường Quốc tế, Đại học Quốc gia Hà Nội và Đại học Kinh tế và Kinh doanh Praha.
Với vai trò Chủ tịch AVSE Global hoạt động tại 20 quốc gia, ông Khương thúc đẩy mạng lưới chuyên gia quốc tế đóng góp hiệu quả cho sự phát triển bền vững của Việt Nam. Ông đã trực tiếp điều hành nhiều dự án lớn của AVSE Global tại Việt Nam, đặc biệt về kinh tế số, kinh tế tri thức, phát triển bền vững, xây dựng thương hiệu quốc gia và thu hút nhân tài.