Chuẩn hóa trần chi phí lãi vay trong giao dịch liên kết

0:00 / 0:00
0:00
(BĐT) - Bộ Tài chính đang lấy ý kiến góp ý cho Dự thảo Nghị định sửa đổi Nghị định số 132/2020/NĐ-CP về quản lý thuế với doanh nghiệp (DN) có giao dịch liên kết (Nghị định 132) với một trong những điểm đáng chú ý là loại trừ quan hệ liên kết giữa ngân hàng với DN. Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) đánh giá cao nội dung sửa đổi này, song cũng kiến nghị loại bỏ quan hệ liên kết giữa các DN nội địa bởi họ không có chênh lệch thuế suất thì không có nhiều động cơ để chuyển giá.
Vay vốn ngân hàng để phục vụ sản xuất, kinh doanh là hoạt động phổ biến của các doanh nghiệp tại Việt Nam. Ảnh: Nhã Chi
Vay vốn ngân hàng để phục vụ sản xuất, kinh doanh là hoạt động phổ biến của các doanh nghiệp tại Việt Nam. Ảnh: Nhã Chi

Nội dung gây tranh cãi nhất kể từ khi Nghị định 132 được ban hành là quy định tại điểm a khoản 3 Điều 16 Nghị định này. Theo đó, đối với DN có giao dịch liên kết, “tổng chi phí lãi vay được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế thu nhập DN không vượt quá 30% của tổng lợi nhuận thuần cộng chi phí lãi vay cộng chi phí khấu hao (EBITDA)”. Dự thảo Nghị định sửa đổi Nghị định 132 giữ nguyên nội dung này, song sửa đổi một số quy định về xác định mối quan hệ liên kết.

Tại tờ trình Chính phủ mới đây về việc sửa Nghị định 132, Bộ Tài chính nêu rõ một số khó khăn, vướng mắc trong xác định “quan hệ liên kết” khi áp dụng quy định này. Điểm d, khoàn 2 Điều 5 của Nghị định 132 quy định quan hệ liên kết xác định trong cả trường hợp: “Một DN bảo lãnh hoặc cho một DN khác vay vốn dưới bất kỳ hình thức nào với điều kiện khoản vốn vay ít nhất bằng 25% vốn góp của chủ sở hữu của DN đi vay và chiếm trên 50% tổng giá trị các khoản nợ trung và dài hạn của DN đi vay”. Tức là, DN được xác định là có quan hệ liên kết với ngân hàng và khi DN phát sinh giao dịch liên kết thì thuộc trường hợp khống chế chi phí lãi vay.

Nhiều DN kiến nghị rằng, vay vốn ngân hàng để phục vụ sản xuất, kinh doanh là hoạt động phổ biến của các DN tại Việt Nam, đây cũng là hoạt động kinh doanh thông thường của ngân hàng (cấp tín dụng). DN và ngân hàng hoàn toàn độc lập với nhau, không có việc kiểm soát, điều hành, góp vốn của ngân hàng đối với hoạt động sản xuất, kinh doanh của DN. Chi phí lãi vay của DN là chi phí thực tế phục vụ hoạt động sản xuất, kinh doanh. Do đó, việc khống chế và loại chi phí lãi vay đối với các DN trong trường hợp này là không phù hợp. Đặc biệt, theo quy định của pháp luật về đầu tư theo phương thức đối tác công tư (PPP), các DN dự án PPP (bao gồm DN dự án BOT) được phép huy động các nguồn vốn hợp pháp (ngoài nguồn vốn chủ sở hữu) lên đến 85% tổng mức đầu tư dự án (không bao gồm phần vốn nhà nước tham gia dự án PPP), chi phí lãi vay theo cơ cấu vốn vay nêu trên được cơ quan nhà nước phê duyệt trong phương án tài chính thu hồi vốn. Do đó, khi DN dự án PPP bị khống chế chi phí lãi vay thì ảnh hưởng đến phương án tài chính thu hồi vốn đã được phê duyệt.

Từ thực tế trên, Dự thảo sửa đổi Điều 5.2.d của Nghị định 132 theo hướng loại trừ các giao dịch vay vốn giữa ngân hàng và DN ra khỏi phạm vi “giao dịch liên kết” trong trường hợp hai bên không có mối quan hệ điều hành, kiểm soát hoặc góp vốn.

Đánh giá cao nội dung sửa đổi, song VCCI kiến nghị, nếu quy định này được thông qua và được áp dụng từ kỳ tính thuế thu nhập DN năm 2024 thì chưa phù hợp với tình hình thực tiễn của nền kinh tế. Trong hai năm 2022 và 2023, do biến động kinh tế vĩ mô, lãi suất trên thị trường tín dụng tăng mạnh, khiến chi phí lãi vay của nhiều DN vượt mức 30% EBITDA. Do đó, VCCI đề nghị cơ quan soạn thảo cân nhắc cho phép áp dụng nội dung sửa đổi hồi tố cho kỳ tính thuế thu nhập DN 2022 và 2023. Theo đó, nếu DN đã bị loại bỏ chi phí hợp lý của khoản vay vượt ngưỡng thì sẽ được giảm trừ nghĩa vụ thuế vào các năm tiếp theo.

Bên cạnh đó, VCCI kiến nghị bỏ áp dụng quy định tại khoản 3 Điều 16 về trần chi phí lãi vay đối với giao dịch trong nước. Theo tổ chức này, quy định này không hợp lý vì giữa hai DN nội địa không có chênh lệch thuế suất thì không có nhiều động cơ để chuyển giá.

Mặt khác, một trong những mục đích của việc bị giới hạn chi phí vốn vay tại Điều 16.3 đối với cả giao dịch thuần túy nội địa, không chênh lệch thuế suất được suy đoán là nhằm chống lại tình trạng “vốn mỏng” của DN. Hạn chế "vốn mỏng" giúp bảo đảm an ninh, an toàn tài chính, tránh tình trạng DN lớn vay nợ quá nhiều, không bảo đảm các tỷ lệ an toàn và dễ dẫn đến mất thanh khoản khi có biến động ngoài kỳ vọng. Tuy nhiên, nhiều ý kiến cho rằng, sử dụng công cụ quản lý thuế cho mục tiêu chính sách này chưa thực sự phù hợp trong bối cảnh của Việt Nam. Thay vào đó, Luật Các tổ chức tín dụng 2024 đã có nhiều quy định để khắc phục tình trạng “vốn mỏng” của DN như giảm tỷ lệ cấp tín dụng tập trung của một ngân hàng cho một khách hàng, đặt ra cơ chế giám sát để bảo đảm các hợp đồng trong giao dịch liên kết cũng phải bảo đảm nguyên tắc độc lập, bình đẳng.

Trên thực tế, chi phí lãi vay cao là đặc điểm tự nhiên thường thấy trong các khoản đầu tư vào lĩnh vực sản xuất và hạ tầng. Do đây là hai nhóm ngành có mức đòn bẩy tài chính cao hơn trung bình, một hình thức tài trợ phổ biến trong các tập đoàn kinh tế là để DN mẹ cho DN con vay hoặc bảo lãnh khoản vay cho DN con nhằm bảo đảm dòng vốn cho các dự án lớn mà DN con đang thực hiện.

“Nếu cứng nhắc áp dụng một mức khống chế chi phí lãi vay với các DN có giao dịch liên kết, sẽ vô tình tạo ra rào cản đối với các tập đoàn, tổng công ty nội địa trong việc huy động vốn nội bộ để triển khai các dự án có quy mô vốn lớn, thời gian hoàn vốn dài hạn”, nhóm nghiên cứu của VCCI nhấn mạnh.

Tin cùng chuyên mục