Đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng trong kỷ nguyên mới

0:00 / 0:00
0:00
(BĐT) - Việt Nam đang trong thời khắc lịch sử, trước ngưỡng cửa của kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, đã được Tổng Bí thư Tô Lâm chỉ rõ, đó là kỷ nguyên phát triển, kỷ nguyên giàu mạnh dưới sự lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản, xây dựng thành công nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng trong kỷ nguyên mới

Thời điểm bắt đầu kỷ nguyên mới là Đại hội XIV của Đảng, từ đây, mọi người dân Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đồng tâm hiệp lực, chung sức đồng lòng, đưa đất nước phát triển toàn diện, mạnh mẽ, bứt phá và cất cánh…

PGS. TS. Nguyễn Ngọc Hà Phó Tổng biên tập Tạp chí Cộng sản

PGS. TS. Nguyễn Ngọc Hà

Phó Tổng biên tập Tạp chí Cộng sản

Đích đến là dân giàu, nước mạnh, sánh vai với các cường quốc năm châu

Kể từ khi được thành lập, hợp nhất từ 3 tổ chức cộng sản (năm 1930), đến nay Đảng Cộng sản Việt Nam đã trải qua gần 80 năm cầm quyền liên tục, là hạt nhân lãnh đạo, dẫn dắt toàn hệ thống chính trị và dân tộc ta kiên cường, anh dũng đánh bại nhiều kẻ thù xâm lược hùng mạnh, làm nên những chiến công “chấn động địa cầu”; là đầu tàu dẫn dắt, đoàn kết thống nhất, khơi dậy tinh thần lao động, tăng gia sản xuất để mang lại cuộc sống ấm no, bình yên mà dân tộc ta hằng mơ ước. Trong chặng đường dài ấy, Đảng ta đã đúc kết, tiếp thu, vận dụng nhiều bài học kinh nghiệm để ngày càng trưởng thành, vững mạnh hơn, đặc biệt trong phương thức lãnh đạo, cầm quyền, quản lý Nhà nước và xã hội. Tổng kết lại, thành công lớn nhất của Đảng ta chính là xây dựng, phát triển Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa từ “hai bàn tay trắng” đến đủ khả năng quản lý đất nước, tổ chức nhân dân đánh bại hai “đế quốc to”, giành độc lập, thống nhất trọn vẹn non sông, gấm vóc. Cho đến ngày nay, Đảng ta vẫn không ngừng đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền để tiếp tục hướng đến hiện thực hóa những mục tiêu to lớn hơn, mang lại thành tựu mới, có ý nghĩa lịch sử, để “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”(1).

Từ thực tiễn trên có thể kết luận rằng, chân lý để phát triển bền vững đất nước phải là đổi mới và sáng tạo, công cuộc lớn lao này phải do Đảng khởi xướng, lãnh đạo toàn diện. Chặng đường 40 năm đổi mới đất nước là minh chứng rõ nét nhất cho thành tựu lớn mà ý chí, tinh thần đổi mới có thể mang lại; thể hiện quá trình liên tục xóa bỏ cái cũ, lạc hậu để xây dựng cái mới tốt đẹp hơn, tạo lực lượng sản xuất lẫn quan hệ sản xuất mới, hướng đến xây dựng đời sống mới của cá nhân và xã hội(2). Qua đó cũng có thể thấy, “Muốn đổi mới tư duy, Đảng ta phải nắm vững bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, kế thừa di sản quý báu về tư tưởng và lý luận cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh”(3), rằng chính trong từng giai đoạn cụ thể, chúng ta đã vận dụng, phát triển trên quy luật “phủ định của phủ định”, khi từng bước loại bỏ mặt tiêu cực của cơ chế cũ, tạo ra những thay đổi to lớn trong đời sống lao động, sinh hoạt, văn hóa tinh thần của xã hội…

Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế đang diễn ra mạnh mẽ, tình hình thế giới liên tục chuyển biến nhanh chóng, phức tạp, khó lường, đặc biệt là trạng thái căng thẳng, xung đột xảy ra nhiều nơi. Cạnh tranh kinh tế, chiến tranh thương mại, tranh giành các nguồn tài nguyên, thị trường, công nghệ, nhân lực chất lượng cao giữa các nước ngày càng quyết liệt. Đất nước ta cũng tiến vào giai đoạn phát triển mới, với thế và lực sau 40 năm cải cách, mở cửa đã hội tụ đủ điều kiện để bước vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, “kỷ nguyên dưới sự lãnh đạo của Đảng, xây dựng thành công nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh… thực hiện thành công mong ước của Chủ tịch Hồ Chí Minh và ước vọng của toàn dân tộc, đưa đất nước sánh vai với các cường quốc năm châu”(4).

Nhân tố quyết định thành công

Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIV sắp diễn ra - là sự kiện chính trị đặc biệt của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta, đánh dấu 96 năm thành lập và chèo lái con thuyền cách mạng dân tộc vẻ vang, 40 năm Đảng lãnh đạo đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc Đổi mới; đặc biệt, khởi đầu giai đoạn “bản lề” để hiện thực hóa mục tiêu “đến năm 2030, là nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao... Phấn đấu đến năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao”(5).

Trên cơ sở đánh giá đúng thời cơ, thách thức, thế và lực của đất nước, Tổng Bí thư Tô Lâm đã xác định rõ dấu mốc Việt Nam bước vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Thời điểm bắt đầu kỷ nguyên mới là Đại hội XIV của Đảng (năm 2026), từ đây, toàn Đảng, toàn quân, toàn dân phải cùng nhau nêu cao tinh thần quyết tâm, chung sức, đồng lòng, tranh thủ tối đa thời cơ, thuận lợi xây dựng đất nước phát triển toàn diện, mạnh mẽ, bứt phá và cất cánh. Theo đó, muốn thực hiện tốt nội dung cầm quyền, giữ vững vai trò lãnh đạo, cầm quyền, đòi hỏi Đảng Cộng sản Việt Nam phải “Đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng”(6). Tuy nhiên, đổi mới không phải là phủ định sạch trơn cách làm và thành tựu trước đây, mà là khẳng định những gì đã hiểu đúng, làm đúng, loại bỏ những gì hiểu sai, làm sai theo đúng tinh thần “phủ định biện chứng”, “phủ định của phủ định” trong quy luật tất yếu mà chủ nghĩa Mác - Lênin đã xác định. Theo đó, những sự việc, vấn đề trước đây là phù hợp, đúng đắn nhưng do tình hình và điều kiện đã thay đổi, phải bổ sung nhận thức và cách làm mới, thậm chí là cắt bớt, loại bỏ để đáp ứng yêu cầu mới.

Như vậy, đầu tiên, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân phải kiên định, bền bỉ nguyên tắc cốt lõi là giữ vững và nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng đối với quản lý Nhà nước và xã hội - xem đây là yếu tố then chốt dẫn đến mọi thắng lợi của công cuộc Đổi mới, hướng đến phát triển đất nước bền vững, hưng thịnh. Thống nhất nhận thức, quan điểm, kiên quyết, kiên trì mục tiêu định hướng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, lấy đó làm nền tảng xây dựng đất nước, nêu cao tinh thần, ý thức kiên định với các quy luật xây dựng chủ nghĩa xã hội - quy luật mang tính tất yếu của lịch sử, quyết định sự tồn vong của dân tộc trong bối cảnh mới.

Thực tiễn lịch sử chứng minh rằng, chính sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố quyết định sự thành công của công cuộc cách mạng, giải phóng dân tộc, đồng thời giành được nhiều thắng lợi trong chống lại kẻ thù xâm lược cũng như xây dựng đất nước. Cách mạng Tháng Tám (năm 1945) thành công, đập tan ách đô hộ của thực dân Pháp và chế độ phong kiến, mang lại độc lập, tự do cho đất nước ta, xác lập vị thế người làm chủ vận mệnh nước nhà của nhân dân, là sự kiện “đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công, đã nắm chính quyền toàn quốc”(7). Vai trò lãnh đạo và trọng trách của Đảng luôn được khẳng định trong Hiến pháp - bộ luật cơ bản của Việt Nam, có hiệu lực pháp lý cao nhất, ghi nhận địa vị pháp lý của đảng cầm quyền và được pháp luật bảo vệ(8).

Trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế, sự bùng nổ của Cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật lần thứ tư và tình trạng xung đột gay gắt giữa các thực thể quan hệ quốc tế… hiện nay, toàn Đảng phải một lòng trên dưới cùng đổi mới mạnh mẽ phương thức, năng lực lãnh đạo, cầm quyền, xứng đáng là lực lượng ngày càng “tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính”(9); tiên phong dẫn dắt toàn dân tộc tiến lên mạnh mẽ. Mặt khác, phải luôn “Kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới của Đảng”(10). Quan trọng hơn, luôn ý thức rằng những chiến lược đổi mới, chuyển mình chỉ thành công khi thực sự được quần chúng nhân dân ủng hộ, tán thành, phải gắn kết chặt chẽ giữa “ý Đảng” với “lòng dân”; đề cao vai trò của trí tuệ, sáng kiến của quần chúng nhân dân, bởi “Dân chúng rất khôn khéo, rất hăng hái, rất anh hùng... Muốn hiểu biết, học hỏi dân chúng, thì ắt phải có nhiệt thành, có quyết tâm, phải khiêm tốn, phải chịu khó”(11).

Vấn đề cốt lõi trong phương thức cầm quyền của Đảng biểu hiện ở phương pháp, cách thức lãnh đạo, quản lý Nhà nước và xã hội thông qua ban hành, triển khai thực hiện hệ thống chủ trương, đường lối nhằm phát triển bền vững đất nước. Theo đó, phương thức lãnh đạo ngày càng phải phù hợp, hiệu quả hơn, đáp ứng yêu cầu thực tiễn. Cần quan tâm đúng mức nhiệm vụ đổi mới, tăng cường hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, bảo đảm tính bài bản, khoa học, kịp thời, thiết thực và hiệu quả gắn với coi trọng việc sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm việc thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của Đảng ở các cấp. Hoàn thiện cơ chế vận hành tổng quát của hệ thống chính trị: “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội làm nòng cốt để nhân dân làm chủ”(12), đồng thời thực hiện đúng đắn, hiệu quả các hình thức dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện, phát huy tinh thần dân chủ ở cơ sở dựa trên phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”(13).

Chú trọng bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và hoạt động có hiệu lực, hiệu quả trong tổ chức và hoạt động nhà nước, sử dụng pháp luật một cách đúng đắn, phù hợp đối với quản lý phát triển xã hội dựa trên sự lãnh đạo toàn diện của Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đề nghị chủ thể thực thi pháp luật phải bảo đảm sự công tâm, nghiêm minh và mọi người dân đều bình đẳng trước pháp luật; yêu cầu đội ngũ cán bộ chủ động nêu gương trong thực thi pháp luật, “Phục tùng nghiêm chỉnh kỷ luật của Đảng. Gương mẫu chấp hành pháp luật của Nhà nước và kỷ luật của các đoàn thể cách mạng của quần chúng mà mình tham gia”(14). Ngược lại, nếu cán bộ, đảng viên không làm tròn trách nhiệm, vi phạm pháp luật thì Nhà nước “phải thẳng tay trừng trị những kẻ bất liêm, bất kỳ kẻ ấy ở địa vị nào, làm nghề nghiệp gì”(15).

Công tác cán bộ cũng phải đặc biệt chú trọng, cần “Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ”(16); nhanh chóng hoàn thiện cơ chế, chính sách tạo động lực cho cán bộ phấn đấu, toàn tâm, toàn ý với công việc. Phải nâng cao nhận thức của cấp ủy, tổ chức đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên về vai trò, tầm quan trọng của công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng gắn với việc ổn định và phát triển hệ thống chính trị; bảo đảm đội ngũ đảng viên nhận thức đúng đắn về những điểm mới trong Quy định số 22-QĐ/TW ngày 28/7/2021 của Ban Chấp hành Trung ương về công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật của Đảng, nhất là tư tưởng chỉ đạo “không có vùng cấm, không có ngoại lệ” trong công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng.

Thêm vào đó, xây dựng cơ chế, lộ trình thăng tiến đối với nhân tài, góp phần kiến tạo môi trường làm việc dân chủ, thân thiện, có sự tôn trọng trong khu vực công; đề cao tinh thần “nói đi đôi với làm”, “rèn luyện suốt đời”, thường xuyên “tự soi”, “tự sửa”, làm cho Đảng ta thật sự trong sạch, vững mạnh(17). Tiếp tục nghiên cứu, ban hành những chính sách linh hoạt nhằm bảo vệ người có tinh thần dám nghĩ, dám nói, dám làm, sáng tạo và có bản lĩnh chấp nhận rủi ro để hướng đến hiệu quả công việc.

Đổi mới là vấn đề quy luật có tính tất yếu - mang ý nghĩa sống còn đối với con đường phát triển của dân tộc Việt Nam. Đổi mới phương thức lãnh đạo là nhiệm vụ thường xuyên, liên tục, bảo đảm vấn đề nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng, để Đảng ta đủ tầm vóc, trí tuệ và khả năng lãnh đạo đất nước bước vào kỷ nguyên mới, vươn mình sánh vai cùng các cường quốc năm châu. Theo đó, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân phải cùng nhận thức rõ thời cuộc, chung tay góp sức đồng lòng đổi mới tư duy, hành động để xây dựng Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa ngày càng tươi đẹp, hưng thịnh, hùng cường.

(1) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 25

(2) Xem: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2004, t. 7, tr. 504 - 505

(3) Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2006, t. 47, tr. 807

(4) Tô Lâm: “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tiếp tục đổi mới, chủ động, sáng tạo, phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, truyền thống yêu nước, bản lĩnh, sức mạnh con người Việt Nam, tự chủ, tự hào, vững tin bước vào kỷ nguyên mới”, Tạp chí Cộng sản, số tháng 1.048 (tháng 10/2024), tr. 5

(5) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 217 - 218

(6) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 200

(7) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. 7, tr. 25

(8) Cụ thể: Khoản 2, Điều 4 Hiến pháp năm 2013 quy định: Đảng Cộng sản Việt Nam - Đội tiên phong của giai cấp công nhân... là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội; gắn bó mật thiết với nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình

(9) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 301

(10) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 109

(11) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 333

(12) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 173

(13) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 173

(14) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 14, tr. 242

(15) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 6, tr. 127

(16) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 187

(17) Xem: Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2022, tr. 233.