Gia tăng niềm tin, nhân lên cơ hội hợp tác quốc tế

(BĐT) - Chia sẻ với Báo Đấu thầu trước thềm Xuân Ất Tỵ 2025, đại diện các doanh nghiệp nước ngoài và tổ chức quốc tế chung niềm tin về triển vọng tươi sáng của nền kinh tế Việt Nam trong năm 2025. Với nỗ lực cải cách thể chế, tinh gọn bộ máy và chú trọng đầu tư phát triển hạ tầng, nguồn nhân lực cùng các chính sách rõ ràng và hành động quyết đoán, Việt Nam có thể bảo đảm cho một tương lai bền vững, toàn diện và thịnh vượng.
Nhiều tổ chức quốc tế tin rằng, bằng các chính sách đầu tư chiến lược cho con người, năng lượng xanh, kết cấu hạ tầng tiên tiến, Việt Nam có tiềm năng đạt được các mục tiêu tham vọng trong năm 2025 và xa hơn. Ảnh: Tiên Giang
Nhiều tổ chức quốc tế tin rằng, bằng các chính sách đầu tư chiến lược cho con người, năng lượng xanh, kết cấu hạ tầng tiên tiến, Việt Nam có tiềm năng đạt được các mục tiêu tham vọng trong năm 2025 và xa hơn. Ảnh: Tiên Giang

Chuyển đổi nền kinh tế sang hướng đổi mới sáng tạo

Ông Hong Sun, Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp Hàn Quốc tại Việt Nam (KoCham)

Kinh tế Việt Nam đang phục hồi nhanh chóng, được dự đoán tiếp tục tăng trưởng mạnh vào năm 2025. Tuy nhiên. để tăng cường thu hút FDI, Việt Nam cần cải thiện một số điểm quan trọng trong môi trường đầu tư.

Trước hết, về pháp lý và quy định, mặc dù Luật Đầu tư đã cải thiện rất nhiều, nhưng vẫn còn những lo ngại về tính ổn định và nhất quán về mặt pháp lý. Do đó, cần nâng cao tính rõ ràng, mạch lạc và khả năng dự đoán của các quy định pháp luật. Đồng thời, khi các doanh nghiệp FDI gặp phải tranh chấp hoặc các vấn đề pháp lý, Việt Nam cần cung cấp hệ thống giải quyết tranh chấp và hòa giải đạt tiêu chuẩn quốc tế.

Bên cạnh đó, cần rút ngắn thời gian xử lý hành chính trong quá trình thành lập và vận hành doanh nghiệp, đồng thời đơn giản hóa các tài liệu và thủ tục cần thiết. Việc triển khai chính phủ điện tử sẽ giúp nhà đầu tư tiết kiệm thời gian và chi phí trong việc khởi nghiệp cũng như điều hành hoạt động kinh doanh.

Ngoài ra, Việt Nam cần nhanh chóng hiện đại hóa hệ thống hạ tầng, trước hết là các cảng, sân bay, hệ thống đường bộ và đường sắt. Điều này không chỉ nâng cao hiệu quả logistics mà còn góp phần thu hút FDI. Đặc biệt, cần đẩy mạnh phát triển hạ tầng công nghệ thông tin (ICT) phù hợp với cách mạng công nghiệp 4.0, bao gồm trung tâm dữ liệu, điện toán đám mây và mạng 5G.

Về phát triển nguồn nhân lực và đẩy mạnh giáo dục, Việt Nam đang chuyển đổi nền sản xuất sang các ngành công nghiệp đòi hỏi nhân lực kỹ thuật cao. Do đó, cần cải thiện hệ thống giáo dục, đặc biệt chú trọng đào tạo nhân lực trong các lĩnh vực STEM (khoa học, công nghệ, kỹ thuật, toán học). Các chương trình đào tạo liên quan đến kỹ năng và công việc thực tế cần được tăng cường để đáp ứng nhu cầu của thị trường.

Mặc dù đang áp dụng các chính sách ưu đãi thuế hấp dẫn, nhưng Việt Nam cũng cần cung cấp môi trường thuế cạnh tranh hơn so với các nước trong khu vực, bao gồm giảm thuế, thiết lập các khu vực miễn thuế và ưu đãi thuế cho nghiên cứu và phát triển (R&D).

Việt Nam đã ký kết nhiều hiệp định thương mại tự do (FTA) mang đến môi trường thương mại hấp dẫn cho các doanh nghiệp nước ngoài. Tuy nhiên, cần tối đa hóa lợi ích và tích cực truyền thông về cơ hội từ các FTA. Đồng thời, cần đa dạng hóa thu hút đầu tư vào các lĩnh vực như công nghệ thông tin, năng lượng tái tạo, công nghệ sinh học, y tế và ô tô điện. Các chính sách hỗ trợ hệ sinh thái đổi mới như quỹ đầu tư mạo hiểm, vườn ươm khởi nghiệp và trung tâm nghiên cứu và phát triển cần được thúc đẩy để chuyển đổi nền kinh tế sang hướng đổi mới sáng tạo.

Tăng trưởng bền vững, tích cực thay đổi để kiến tạo tương lai

Bà Ramla Khalidi, Trưởng đại diện thường trú của Chương trình Phát triển Liên hợp quốc (UNDP) tại Việt Nam

Năm 2024, kinh tế Việt Nam đã phục hồi mạnh mẽ và tôi lạc quan về triển vọng năm 2025.

Việt Nam khá tham vọng với việc đặt mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2025 ở mức 7 - 7,5%. Đà tăng trưởng năm 2025 sẽ phụ thuộc vào một số yếu tố như sự phát triển của các lĩnh vực giá trị cao như điện tử, công nghệ xanh, dịch vụ giá trị gia tăng; đầu tư nước ngoài; giáo dục và đào tạo kỹ năng để tăng năng suất lao động...

Với việc tập trung vào những lĩnh vực này, Việt Nam có thể chuyển đổi từ việc tăng trưởng theo chiều rộng dựa trên lao động và vốn sang tăng trưởng theo chiều sâu dựa trên năng suất và sáng tạo.

Việt Nam đang ở giai đoạn có tính quyết định của chặng đường phát triển. Để đạt được thành công dài hạn, cần giải quyết được các vấn đề về tái cơ cấu, thúc đẩy tăng trưởng toàn diện và bền vững.

Bằng các chính sách đầu tư chiến lược cho con người, năng lượng xanh, kết cấu hạ tầng tiên tiến, Việt Nam có tiềm năng đạt được các mục tiêu tham vọng trong năm 2025 và có thể hơn thế. Với các chính sách rõ ràng và hành động quyết đoán, Việt Nam có thể đảm bảo tương lai bền vững, toàn diện và thịnh vượng cho người dân.

Việt Nam vẫn là điểm đến đầu tư hấp dẫn đối với các doanh nghiệp Mỹ

Bà Virginia Foote, Thành viên HĐQT AmCham Việt Nam, Chủ tịch Công ty Bay Global Strategies

Tôi tin rằng kinh tế Việt Nam sẽ có một năm 2025 tươi sáng xét về cả thương mại quốc tế và phát triển thị trường trong nước. Đặc biệt, thị trường Mỹ có thể tiếp tục là điểm đến đầy hứa hẹn của hàng Việt thông qua thương mại điện tử cũng như các hình thức giao thương truyền thống. Quy mô và sức hấp thụ lớn của thị trường Mỹ cùng với sự thay đổi quan hệ với Trung Quốc đang thu hút các dòng đầu tư chuỗi cung ứng về Việt Nam. Điểm tích cực là Việt Nam đang chú trọng cải cách các quy định pháp lý để tạo môi trường kinh doanh thuận lợi hơn.

Tuy nhiên, một điểm đáng quan tâm là chính quyền Tổng thống Donald Trump đang xem xét việc nâng hàng rào thuế quan với hàng nhập khẩu để giải quyết tình trạng thâm hụt thương mại hiện đã ở mức hơn 700 tỷ USD. Việc này có thể buộc chúng tôi phải quan sát thương mại hai chiều giữa hai nước, môi trường đầu tư và xuất xứ của đầu vào trong các chuỗi cung ứng của Việt Nam.

Tuy nhiên, Việt Nam vẫn là điểm đến đầu tư hấp dẫn đối với các doanh nghiệp Mỹ trong định hướng đa dạng hóa chuỗi cung ứng và đối tác toàn cầu. Trong tương lai, để duy trì và thu hút thêm các dòng vốn đầu tư, Việt Nam cần tiếp tục cải thiện tổng thể kết cấu hạ tầng. Năng lượng, bao gồm việc tiếp cận với các nguồn năng lượng tái tạo, cơ chế pháp lý rõ ràng, thuận tiện trong việc tiếp cận các dịch vụ số, dịch vụ tài chính, thuận lợi trong đầu tư trực tiếp và gián tiếp, dịch vụ logistics được cải thiện sẽ là những yếu tố cốt yếu thu hút các nhà đầu tư và mọi chuỗi cung ứng. Trong môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt, nhà đầu tư có nhiều lựa chọn, tôi tin tưởng Việt Nam có thể dẫn đầu và đạt được những kết quả tích cực trong năm 2025.

Việt Nam là ngôi sao sáng trong các điểm đến đầu tư

Ông Bruno Jaspaert, Chủ tịch EuroCham Việt Nam

Trong suốt hai năm qua, Chỉ số Niềm tin kinh doanh (BCI) chủ yếu dao động quanh mức trung lập là 50, thậm chí có lúc còn dưới ngưỡng này. Tuy nhiên, BCI đã tăng vọt từ 46,3 trong quý IV/2023 lên 61,8 trong quý IV/2024, phản ánh sự lạc quan của cộng đồng doanh nghiệp châu Âu về triển vọng kinh tế của Việt Nam.

Sự gia tăng niềm tin kinh doanh có thể được lý giải nhờ vào nhiều yếu tố, đặc biệt là những cải cách kinh tế và vai trò trung tâm của Việt Nam trong xu hướng toàn cầu về phát triển bền vững. Đặc biệt, nhiều doanh nghiệp đã nhận định, quá trình chuyển đổi số và chuyển đổi xanh đóng vai trò quan trọng cho những đánh giá tích cực. Các doanh nghiệp nắm bắt những xu hướng này đã ghi nhận sự tăng trưởng mạnh mẽ, thậm chí tăng trưởng doanh thu lên tới 40% so với năm trước. Xu hướng bền vững được thúc đẩy bởi chính sách của Chính phủ Việt Nam và các quy chuẩn quốc tế đang trở thành yếu tố quan trọng xây dựng chiến lược kinh doanh.

Sự gia tăng rõ rệt về niềm tin này phản ánh sự công nhận rộng rãi về quá trình đổi mới về chính trị và kinh tế của Việt Nam trong suốt những năm qua. Việc các doanh nghiệp châu Âu coi Việt Nam như một điểm đến đầu tư hấp dẫn là minh chứng cho nền tảng vững chắc của đất nước.

Mặc dù đối mặt với những thách thức toàn cầu, môi trường đầu tư tích cực của Việt Nam vẫn đang tạo ra nhiều cơ hội mới cho các doanh nghiệp châu Âu, đặc biệt là trong các lĩnh vực như công nghệ, sản xuất, du lịch và năng lượng tái tạo.

Việt Nam đang đứng trước một bước ngoặt quan trọng. Các nỗ lực sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy đang cho thấy triển vọng tích cực. Xây dựng khung pháp lý của Việt Nam giống như xây dựng một ngôi nhà. Ngôi nhà muốn vững chãi thì phải có nền móng chắc chắn. Các quy trình pháp lý minh bạch, rõ ràng và hiệu quả sẽ giúp đất nước phát triển mạnh mẽ, cải thiện thương mại và khuyến khích các nhà đầu tư coi Việt Nam là ngôi nhà mới của họ.

Gia tăng niềm tin, nhân lên cơ hội đầu tư mới

Ông Ozasa Haruhiko, Trưởng đại diện Tổ chức Xúc tiến thương mại Nhật Bản, Văn phòng đại diện tại Hà Nội (JETRO Hà Nội)

Theo kết quả khảo sát điều kiện kinh doanh của các doanh nghiệp Nhật Bản đầu tư ra nước ngoài năm 2024, 64,1% công ty hoạt động tại Việt Nam kỳ vọng có lợi nhuận trong năm 2024, tăng 9,8 điểm % so với năm trước. Đây là lần đầu tiên trong 5 năm tỷ lệ này vượt quá mức 60%, tính từ đại dịch Covid-19. Các doanh nghiệp trong các lĩnh vực như thiết bị vận tải, thực phẩm, năng lượng, khai khoáng, giáo dục, y tế dự báo đạt mức lợi nhuận cao hơn.

Với năm 2025, 50,4% doanh nghiệp Nhật Bản tại Việt Nam kỳ vọng lợi nhuận sẽ tăng so với năm 2024, cao hơn mức trung bình 42,3% của cả khu vực ASEAN.

Về định hướng phát triển kinh doanh trong 1 - 2 năm tới, 56,1% doanh nghiệp Nhật Bản tại Việt Nam cho biết sẽ mở rộng hoạt động sản xuất, kinh doanh, tỷ lệ cao nhất trong khu vực ASEAN nhờ niềm tin vào đà tăng trưởng của thị trường nội địa Việt Nam và thị trường xuất khẩu. Từ những yếu tố này, có thể nói rằng, nền kinh tế Việt Nam sẽ tăng trưởng cân bằng, nhờ sức tăng trưởng của cả nhu cầu trong nước và thế giới. Thêm vào đó, dòng vốn đầu tư vào Việt Nam dự kiến sẽ tăng để đón đầu sự chuyển dịch chuỗi cung ứng toàn cầu.

JETRO tập trung vào việc kết nối doanh nghiệp Việt Nam với doanh nghiệp Nhật Bản. Trước hết, hợp tác với Trung tâm Đổi mới sáng tạo quốc gia Việt Nam (NIC), JETRO hỗ trợ các startup Việt Nam về cơ sở dữ liệu khách hàng và dịch vụ thông qua các công ty của Nhật có nguồn lực vốn và năng lực quản lý.

Để tăng cơ hội hợp tác, doanh nghiệp Việt Nam cần cải thiện hơn nữa năng lực cung ứng sản phẩm có chất lượng và hàm lượng công nghệ. Với chính sách thương mại mới của Mỹ, việc thu mua tại thị trường Việt Nam và Đông Nam Á có thể là cần thiết để tăng cường xuất khẩu sang Mỹ. Từ khía cạnh này, việc phát triển các ngành phụ trợ tại Việt Nam với sự hợp tác của các lĩnh vực tư và công là cần thiết.

Năm 2025, quá trình tái cơ cấu các cơ quan trung ương, tinh giản bộ máy được kỳ vọng sẽ đạt hiệu quả tích cực, giúp gia tăng niềm tin của các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam và mang lại những cơ hội đầu tư mới.

Triển vọng tăng trưởng kinh tế năm 2025 khả quan

Ông Shantanu Chakraborty, Giám đốc quốc gia ADB tại Việt Nam

Trong báo cáo mới nhất công bố vào tháng 12/2024, ADB đã nâng mức dự báo tăng trưởng kinh tế của Việt Nam lên 6,6% trong năm 2025 so với mức 6,2% trong dự báo đưa ra vào tháng 9/2024.

Dự báo khả quan của ADB dựa trên hoạt động xuất khẩu mạnh mẽ, sự phục hồi nhanh chóng của khu vực chế biến, chế tạo phục vụ xuất khẩu và dòng vốn FDI. Tuy nhiên, những bất ổn từ nền kinh tế toàn cầu sẽ tiếp tục tác động tới nền kinh tế trong năm 2025.

Sự phục hồi trong sản xuất phục vụ xuất khẩu và thương mại dự kiến diễn ra ở mức độ khiêm tốn hơn trong năm 2025, tùy thuộc vào yếu tố bên ngoài, đặc biệt là những thay đổi chính sách sắp tới của chính quyền Tổng thống Donald Trump.

Ngoài ra, những bất ổn địa chính trị, nguy cơ căng thẳng thương mại toàn cầu có khả năng kéo theo chiến tranh tiền tệ, tác động tiêu cực tới các nước đang phát triển, bao gồm Việt Nam.

Để duy trì đà tăng trưởng trong năm 2025, ổn định kinh tế vĩ mô với sự kết hợp cân bằng hơn giữa các chính sách tiền tệ và tài khóa là điều cần thiết.

Trong nước, nhiều dự án cải thiện và phát triển kết cấu hạ tầng đầy tham vọng đã được công bố, nhưng nếu chậm triển khai, tác động tiềm tàng của các dự án này đối với tăng trưởng trong dài hạn sẽ bị hạn chế. Do đó, việc đẩy nhanh đầu tư vào kết cấu hạ tầng quan trọng là rất cấp thiết.

Bên cạnh đó, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao càng trở nên cấp thiết hơn do xu thế già hóa dân số, cũng như những vấn đề phát sinh của lao động di cư trong quá trình đô thị hóa.

Ngoài ra, quá trình công nghiệp hóa nhanh chóng mang đến những thách thức về môi trường, bao gồm ô nhiễm và tác động của biến đổi khí hậu, đòi hỏi phải có các chiến lược phát triển bền vững.