Một cuộc gặp mặt thường niên của các cựu chiến binh sinh viên nhập ngũ năm 1970 |
Lịch sử 80 năm xây dựng, chiến đấu, chiến thắng vẻ vang và trưởng thành lớn mạnh của Quân đội nhân dân Việt Nam được vun đắp bởi chiến công, đóng góp của các đơn vị và triệu triệu con người, trong đó có một thế hệ sinh viên lên đường cầm súng chiến đấu ở thời điểm vô cùng khốc liệt của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Những sinh viên tuổi 18 - 20 được ví như thế hệ “tài hoa ra trận”, có quá nửa không trở về...
Lứa học sinh ấy quả là vất vả, bởi thời phổ thông thì phải học trong bom đạn, khi trở thành sinh viên thì các trường đại học đều phải sơ tán về địa phương.
Có một chi tiết mà đã hơn 50 năm rồi tôi vẫn còn nhớ. Đó là trong lễ chào cờ khai giảng năm học 1968 - 1969, năm học đầu tiên của tôi tại Khoa Ngữ văn - Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 1 ở nơi sơ tán, thầy trò cùng hát Quốc ca trong tiếng súng bắn chỉ thiên của đội tự vệ như nhắc nhở: Đất nước đang còn chiến tranh. Đặc biệt, trong bài phát biểu khai giảng năm học mới, giáo sư Lê Trí Viễn - Chủ nhiệm Khoa Ngữ văn đã ứng tác đọc mấy câu thơ:
“Khai giảng năm nay có bắn súng
Tiếng súng nôn nao cả tấm lòng
Xin hứa: Quyết làm viên đạn nhỏ
Khỏi nòng chỉ biết có xung phong”
Và như dự cảm từ lễ khai giảng năm học ấy, mùa hè năm 1970, lần đầu tiên, hàng nghìn sinh viên các trường đại học ở miền Bắc “xếp bút nghiên ra trận” theo Lệnh động viên cục bộ của Nhà nước. Tôi cũng là một “viên đạn nhỏ ra khỏi nòng” trở thành người lính ngày 24/8/1970 khi vừa học hết năm thứ hai Sư phạm Văn khoa và chưa đầy 19 tuổi!
Bên khối đá khắc 4 câu thơ của nhà báo Phạm Đình Lân ở di tích thành cổ Quảng Trị |
Theo số liệu thống kê, từ năm 1970 đến 1972, hơn 10.000 sinh viên miền Bắc đã “xếp bút nghiên ra trận”, hình thành một thế hệ sinh viên chiến đấu trên khắp các chiến trường từ Bắc vào Nam và trên đất bạn Lào trong thời điểm vô cùng nóng bỏng, khốc liệt!
Cứ mỗi khi nhớ lại quãng thời gian này, tôi lại nhớ đến đoạn văn của nữ văn sĩ Bungaria Blaga Dimitrova viết về chiến tranh Việt Nam. Bà viết: “Mỗi gia đình Việt Nam dường như ít nhất đều có một người thân mất đi… Chiến tranh là sự giết chết thời gian. Không ai có thể trả lại cho cả một thế hệ những năm tháng tuổi trẻ, khi tương lai họ đang hình thành… Một thế hệ mà tương lai họ đã bị giết chết. Nhưng chính thế hệ đó, thế hệ mà ta tưởng rằng phải rền rĩ tiếc than vì đã mất đi cái thời gian quý nhất trong đời mình, lại cất tiếng cười trong đêm tối và lấy tuổi trẻ của mình mà lấp những hố bom!”.
Khác với những người lính ra đi từ các làng quê, nhà máy, công trường…, lứa lính ra đi từ mái trường đại học ngày ấy được ví như một thế hệ “tài hoa ra trận”. Bởi cùng với khẩu súng, ba lô trên vai, nhiều anh em vẫn mang theo những cuốn giáo trình đại học, cây đàn, xếp giấy và bút vẽ… Đặc biệt là hầu hết đều mang theo những cuốn sổ tay để viết nhật ký, đúng như những câu trong bài thơ “Về một thế hệ xếp bút nghiên” của một đồng đội chúng tôi đã viết:
“… Đất nước hai đầu lửa cháy
Chúng tôi lên đường đi về miền xa ấy
Tạm biệt giảng đường những ánh mắt trong veo
Chẳng có gì mang theo
Chỉ cuốn sổ tay và chiếc khăn bạn bè trao tặng
Trang nhật ký là hành trang cuộc đời cứ dày theo năm tháng
Cứ dày theo nỗi nhớ đến nao lòng…”.
Sau này, có người hỏi chúng tôi ngày ấy “xếp bút nghiên ra trận” có nuối tiếc gì không? Câu trả lời là: “Có chứ!”. Bởi lẽ tuổi mười tám, đôi mươi là lứa tuổi ấp ủ biết bao ước mơ và khát vọng! Trên đời này chẳng ai sinh ra để đi chiến đấu cả. Đây là “sứ mệnh từ trái tim”, là bổn phận làm trai khi đất nước có giặc ngoại xâm. Chính vì vậy, mặc dù rất mong ngày được trở lại trường học tiếp, xây dựng đất nước và tương lai cho chính mình, nhưng lúc ấy, nhiệm vụ cứu nước được đặt lên hàng đầu, không ai nghĩ đến ngày trở về…
Và thật bi hùng, kết thúc chiến tranh, quá nửa số sinh viên “xếp bút nghiên ra trận” đã không trở về. Trong bom đạn khốc liệt, “nhiều chàng sinh viên mới quen cầm súng, chỉ một đêm đã hóa vĩnh hằng”! Các anh đã dâng hiến tuổi thanh xuân cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất non sông - mà hy sinh nhiều nhất là ở Quảng Trị trong mùa hè rực lửa năm 1972.
Bây giờ, nếu ai có dịp đến Quảng Trị, khi đi qua dòng sông Thạch Hãn chắc hẳn đều nhớ câu thơ của nhà thơ cựu chiến binh Lê Bá Dương:
"Đò lên Thạch Hãn ơi chèo nhẹ
Đáy sông còn đó bạn tôi nằm
Có tuổi hai mươi hòa sóng nước
Vỗ yên bờ mãi mãi ngàn năm".
Và khi đến thăm di tích Thành cổ, ai cũng xúc động đến lặng người khi đọc mấy câu thơ của nhà báo cựu chiến binh Phạm Đình Lân được khắc trên khối đá xanh đặt trên thảm cỏ non trong khu di tích:
“Nhẹ bước chân và nói khẽ thôi
Cho đồng đội tôi nằm yên dưới cỏ
Trời Quảng Trị trong xanh và lộng gió
Ru mãi bài ca Bất tử đến vô cùng”.
Trải qua khói lửa chiến tranh, hầu hết sinh viên cầm súng đều trở thành những người lính đầy bản lĩnh, chiến đấu giỏi và lập công. Nhiều người đã trở thành tướng lĩnh, sĩ quan cao cấp trong Quân đội. Rất nhiều người được tặng thưởng huân chương, huy chương các loại. Đặc biệt, có người đã được phong tặng và truy tặng danh hiệu Anh hùng.
Tác giả trong chương trình Cất cánh tháng 7/2024 của VTV1 nói về thế hệ sinh viên cầm súng |
Sau ngày đất nước khải hoàn, những chàng lính sinh viên trở về, nhiều người mang thương tật hoặc di chứng chiến tranh, lại lên giảng đường tiếp tục học tập, ra trường phục vụ công cuộc tái thiết đất nước. Nhiều người đã trở thành cán bộ quản lý, nhà khoa học, giáo sư, tiến sĩ, nhà giáo, nhà văn, nhà thơ, nhà báo… Trong đó, một số người đã trở thành cán bộ chủ chốt, quan trọng trong hệ thống chính trị ở các cơ quan Trung ương và địa phương.
Đến mùa xuân này là đã hơn nửa thế kỷ kể từ ngày chúng tôi tạm biệt giảng đường lên đường chiến đấu. Từ trong sâu thẳm ký ức, mỗi chúng tôi vẫn luôn nhớ về mái trường nơi đã có những năm tháng sinh viên và vẫn tự hào khi tự giới thiệu mình là “lính sinh viên” của trường.
Chiến tranh đã lùi xa, với tất cả lòng khiêm tốn, chúng tôi vẫn có thể nói rằng: Trong lịch sử dân tộc Việt Nam, chưa có thế hệ nào chịu gian lao, vất vả, ác liệt và hy sinh nhưng cũng rất tự hào như những người lính sinh viên thời chống Mỹ. Đúng như Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã viết: “Tổ quốc ghi công lớp lớp thầy giáo, sinh viên đã xếp bút nghiên lên đường chiến đấu và đóng góp xứng đáng vào chiến thắng của dân tộc. Tinh thần yêu nước mãi mãi là ngọn lửa soi sáng các thế hệ thanh niên Việt Nam trong sự nghiệp phát triển đất nước trở thành quốc gia giàu mạnh, hòa bình và hạnh phúc”.
Trong cuộc sống muôn màu hôm nay, dù ở vị trí nào thì điểm chung nhất của những người lính sinh viên là gạch nối giữa quá khứ với hiện tại, là câu chuyện không bao giờ cũ về những năm tháng cầm súng, là ký ức về các đồng đội nằm lại trên các chiến trường, “mãi mãi tuổi 20”!.